Quảng
Bình với những đặc điểm thiên nhiên đa dạng, với lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước từ khi là "phên dậu" phía Nam của nước Đại Việt, là
địa đầu của cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh, là chiến tuyến Bắc-
Nam trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ... Nơi đây ghi nhận nhiều dấu ấn
lịch sử quan trọng, là nơi phân chia, hội tụ của nhiều nền văn hóa. Do
vậy, sự biến đổi và phát triển của văn hóa của vùng đất này cũng diễn ra
rất phong phú. Vì thế, tìm hiểu "Phong tục lễ Tết truyền thống ở Quảng
Bình" sẽ góp phần làm sáng tỏ nét đẹp văn hóa của vùng đất Quảng Bình.
Đồng thời làm nổi bật lên giá trị nhân văn trong phong tục, tập quán
Quảng Bình. Đây chính là vấn đề tôi muốn đề cập tới các bạn đọc. Phạm vi
khảo sát của vấn đề tôi tham khảo trong cuốn sách "Quảng Bình thắng
cảnh và văn hoá" do Trần Hoàng chủ biên, Nhà xuất bản Lao động 2007.
Phong tục là những thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời, được đại đa số người Việt thừa nhận và làm theo (phong - gió; tục - thói quen; phong tục là thói quen lan rộng ). Theo Hoàng Quốc Hải trong Văn hóa phong tục thì
phong tục là quy ước của cộng đồng về các mặt ăn, ở, giao tiếp, ứng xử.
Từ đó nảy sinh ra các tập tục về tín ngưỡng và cao hơn là nghi thức về
tôn giáo. Phong tục là thói quen, tục lệ đã ăn sâu vào đời sống xã hội,
được mọi người công nhận và làm theo. Theo nghĩa Hán Việt thì "phong"
là lối sống: phong hóa, phong tục, phong thổ. Tục là thói cũ: phong
tục, là thói có nhiều người theo: thông tục. Như vậy, phong tục là thói
quen, nếp sống lan truyền, phổ biến trong dân chúng.
Trải qua nhiều thế hệ sinh sống trên mảnh đất này, cư dân Quảng Bình hình thành nên nhiều phong tục độc đáo.
Thờ cúng là nét đẹp văn hoá của người Việt hình thành từ bao đời nay.
Phong tục thờ cúng của cư dân Quảng Bình thể hiện ở ba hình thức. Tục
thờ vong linh người đã khuất; thờ thần linh; thờ cúng ở đình làng (thiên thần và nhân thần).
Tục thờ cúng ở miền xuôi lại khác miền ngược, ở vùng làm nông nghiệp
khác vùng ngư nghiệp...Ngoài phong tục thờ cúng trong sinh hoạt hàng
ngày cũng hình thành nhiều phong tục khác như: phong tục cưới hỏi, sinh
đẻ, ma chay...Đặc biệt ở Quảng Bình còn có tục khuyến học. Các làng văn
vật nổi tiếng ở Quảng Bình có tục lệ khuyến khích con em làng mình vượt
khó học tập. Nhiều làng quê văn vật đã xuất hiện và ghi nhận từ lâu đời:
Sơn - Hà - Cảnh - Thổ / Văn - Võ - Cổ - Kim. Đây là tám làng quê sinh ra những văn nhân xuất thế.
Có thể nói rằng Quảng Bình là tỉnh có truyền thống lịch sử lâu đời, là
mảnh đất tuyến đầu của hai quốc gia Đại Việt và Chiêm Thành, lại là nơi
giới tuyến phân chia giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Thiên nhiên dù hùng
vĩ, đẹp đẽ nhưng khí hậu khắc nghiệt, nhiều đồi núi, đất nhiều vùng cát
sỏi, lại nằm trong địa thế tranh chấp giữa hai quốc gia Việt- Chăm, sau
này là hai thế lực chính trị Trịnh- Nguyễn. Con người nơi đây phải kiên
cường, gan góc mới vượt qua những thử thách đầy gay go. Các đặc điểm
trên tạo nên những giá trị văn hoá truyền thống của con người Quảng Bình
Tết truyền thống hay gọi là Tết Nguyên Đán do chữ Tiết (tức tiết khí,)
mà ra, ở đây có nghĩa là lễ hội hằng năm ; Nguyên là bắt đầu và Đán là
buổi sáng mai. Như thế Tết Nguyên Đán chính là ngày lễ hội mở đầu cho
một năm mới. Từ ngàn xưa, cha ông ta tính thời gian theo sự vận hành của
Mặt Trăng. Mỗi tháng bắt đầu vào một ngày của tuần trăng mới. Mỗi năm
bắt đầu sau mười hai tuần trăng như thế, nó mở đầu cho một mùa xuân mới,
mùa cây cối xanh tươi, đâm chồi nảy lộc. Vào dịp khởi đầu của một năm
tất cả mọi người đều vui mừng, hoan hỉ chào đón năm mới.
Quảng Bình cũng giống như nhiều vùng quê khác của đất nước ta người dân đã sữa soạn cho ngaỳ Tết bắt đầu từ tháng Chạp (tháng 12 âm lịch). Công việc đầu tiên phải làm là người dân thường đi dãy cỏ, đắp đất, sửa sang lại phần mộ ông bà tổ tiên, những người thân trong gia đình đã khuất. Công việc "xủi mả" hay còn gọi là chạp mả được tiến hành theo từng gia đình và đôi khi cả dòng họ phải làm cho tới ngày 30 Tết.
Tiếp đến là người dân Quảng Bình cúng ông Táo (hay còn gọi là Tết ông Táo).
Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo là người ghi chép tất cả
những gì con người làm trong năm và báo cáo với Ngọc Hoàng. Ông Táo được
cúng vào ngày 23 tháng Chạp Âm lịch hàng năm. Lễ cúng của người dân
ngoài hương, nến, hoa quả, vàng mã còn có hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà
và con cá chép, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình
gặp Ngọc Hoàng. Qua lễ rước ông Táo người dân Quảng Bình mong muốn năm
mới gia đình sẽ gặp nhiều may mắn, hạnh phúc.
Trong những ngày gần Tết, con cháu trong gia đình dù có đi làm ăn xa
cũng phải trở về quê hương để đoàn tụ với gia đình, kính cẩn thắp nén
hương cho ông bà tổ tiên để mong cho năm mới gia đình được hạnh phúc, ấm
no.. Đây cũng là dịp để bà con, anh em, con cháu quây quần bên nhau để
cùng ôn lại lịch sử công đức của tổ tiên, ông bà, và nhắc nhở, động viên
nhau trong công việc làm ăn cũng như vấn đề học hành. Từ đó phát huy
truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ mãi mãi khắc ghi, làm theo.
Cùng với việc chạp mả là công việc sắm sửa cho ngày Tết. Ngày Tết ở
Quảng Bình người dân tấp nập mua sắm, chuẩn bị rất chu đáo. Nhà nào cũng
lo chuẩn bị gạo nếp, mua đậu xanh để gần đến ngày gói bánh chưng, bánh
tét.

Họ
còn muối dưa hành vào đầu tháng này, bên cạnh đó người dân còn đi chợ
sắm sửa những vật dùng cho ngày Tết: Đó là chọn những con gà, bó hương,
bánh mứt, rượu... để cúng ông bà vào đêm giao thừa. Bên cạnh đó là việc
sửa sang đình làng và sắp đặt lại bàn thờ ông bà tổ tiên. Người dân lau
chùi các vật trên bàn thờ, các đồ đồng thì đem đi đánh bóng. Án thư, mâm
quả đều đem đi rửa sạch. Bên cạnh đó còn có cả câu đối đỏ. Bàn thờ được
chùi rửa và còn được trang trí cả hoa, và bỏ thêm quả. Nhà
nào nhà nấy cũng lo lau quét nhà cửa, trang hoàng lại trong nhà mình
được sạch đẹp hơn. Đường thôn, ngõ xóm quét dọn sạch sẽ, phong quang.
Dân các làng biển ở Quảng Trạch còn gánh cát về rải khắp đường, khắp
ngõ. Chợ làng, chợ huyện, rộn ràng được mở ra. Chợ phiên 26- Ba Đồn, chợ
bến Đồng Hới (họp ở xóm Câu) là những phiên chợ lớn, rất nhiều
hàng hoá, tấp nập người mua sắm. Ngoài những hàng lương thực lúa gạo,
khoai sắn, hàng lâm sản, hải sản chợ nào cũng đầy đủ vải vóc, áo quần,
hoa quả, bánh kẹo và đồ chơi Tết. Nhìn vào buổi chợ chúng ta sẽ bắt gặp
một điều đặc biệt là những em nhỏ đang cùng với mẹ, hoặc được chị mua
cho những chiếc áo quần mới, hay con tu huýt bằng đất nung đủ màu....Chợ
Tết ở Ba Đồn hay chợ Đồng Hới không những là nơi để mua bán, trao đổi
sản phẩm mà ở đây còn là nơi diễn ra các hoạt động văn hoá, văn nghệ rất
vui tươi, rộn ràng. Nào là các trò chọ gà, hát bài Chòi, bài Thai, hát
nhà trò.... thu hút nhiều người tham gia, cổ vũ làm tăng thêm không khí
náo nhiệt của buổi chợ.
Do quan niệm cả năm làm việc vất vả, đến ngày Tết là để vui chơi, hưởng
thụ, thắt chặt thêm tình cảm gia đình, làng xóm. Công việc chuẩn bị cho
việc ăn Tết, các gia đình thường mua sắm, chế biến các món ăn, các loại
bánh mang đặc sắc của mỗi vùng trong tỉnh. Vùng ở Tuyên Hoá, người dân
hay làm bánh dì bánh ít. Đây là một loại bánh được làm từ bột gạo kèm
theo nhân đậu xanh hoặc nhân thịt, sau đó hấp lên. Những người dân ở các
huyện như Quảng Ninh, Lệ Thuỷ thường làm bánh gạo, bánh xoài, mứt...
nguyên liệu được lấy từ sản phẩm nông nghiệp của vùng làm ra. Vùng biển
Quảng Bình hay làm bánh dừa (bánh dùng lá dừa để gói) ngoài ra họ còn
làm thêm cả cá chuối từ quả chuối qua công đoạn sao sấy, phơi khô, chế
nước lèo từ trái cây....
Đặc biệt nhà nào cũng chuẩn bị một nồi cá kho tuỳ theo nơi ví như vùng biển thì có cá biển ngon là cá thu, cá thiều, cá buôi....vùng đồng bằng thì có cá quả, cá trắm, cá gáy... Đây được xem là một món ăn quen thuộc trong cơ cấu bữa ăn hằng ngày nhưng trong ngày Tết vẫn được xem trọng vì trong cuộc sống bình thường, trên quan điểm "ăn chắc mặc bền" người Quảng Bình lấy cơm rau, cơm cá, cơm nước mắm làm bữa ăn chính. Bữa ăn nào có cá đối với họ là một bữa ăn ngon và sang trọng.
Những công việc cuối cùng của việc chuẩn bị trước Tết là dựng cây nêu trước nhà. Cây
nêu là một cây tre cao khoảng 5- 6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ
(tùy theo từng điạ phương trong tỉnh) như vàng mã, bùa trừ tà, cành
xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để Táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ),
đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất
nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những
tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai... Người dân Quảng Bình tin rằng
những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh
đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không
được tới quấy nhiễu...Cây nêu cũng chính là dấu hiệu báo rằng ngày Tết
đã đến.
Ngoài ra một số vùng ở Quảng Bình có tục tắm tất niên bằng lá thơm mang ý nghĩa gội rửa những gì bụi bặm, xui xẻo của năm trước và để bước vào một năm mới với mong muốn sức khoẻ bản thân luôn khoẻ mạnh, sạch sẽ, mới mẻ.
Ngoài ra một số vùng ở Quảng Bình có tục tắm tất niên bằng lá thơm mang ý nghĩa gội rửa những gì bụi bặm, xui xẻo của năm trước và để bước vào một năm mới với mong muốn sức khoẻ bản thân luôn khoẻ mạnh, sạch sẽ, mới mẻ.
Ngày
Tết của người Quảng Bình không thể thiếu câu đối, bánh chưng. Nhà nào
dù nghèo hay giàu cũng phải gói được vài cặp bánh chưng, có được ít nhất
một cặp câu đối Tết. Trên bàn thờ bao giờ cũng có một nải chuối cau.
Nải chuối cau tượng trưng cho bàn tay của ông bà, tổ tiên che chở, phù
hộ cho gia đình mình. Bên cạnh nải chuối là bánh chưng. Bánh chưng là
thứ bánh không thể thiếu trên bàn tờ gia tiên. Bánh chưng tượng trưng
cho mặt đất, cho tấm lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, tổ
tiên. Hai bên bàn thờ gia tiên là cặp câu đối Tết thường có màu đỏ hoặc
vàng. Câu đối do chủ nhà chọn mua hoặc thuê người viết, thường có nội
dung nói về công ơn sinh thành của cha mẹ, về đất nước, về cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, thanh bình..
Phần
lễ Tết của người Quảng Bình được thể hiện long trọng. Chiều 30 Tết sau
bữa cỗ đón tất niên, các gia đình quây quần bên nhau cùng trò chuyện,
chơi bài hoặc nấu bánh....Tết thực sự bắt đầu khi chiêng trống ở đình
làng nổi lên báo hiệu giờ giao thừa đã đến. Lúc này tất cả mọi thứ như
hoa quả, bánh chưng, bánh tét, gà lễ, kẹo bánh, rượu thuốc.....đều được
đặt lên bàn thờ tổ tiên. Những người đúng đầu trong gia đình tiến hành
thắp nhang kính cẩn vái lạy trời đất, tổ tiên, ông bà đã về chung vui
trong Tết với con cháu. Họ trình bày truớc vong linh những việc đã làm
trong năm qua, những việc chưa làm được và cầu mong sang năm mới trời
đất, tổ tiên, ông bà phù hộ độ trì cho con cháu khoẻ mạnh, gặp nhiều may
mắn, ăn nên làm được, mùa màng bội thu, con cái học hành thật tốt.... Ở
làng biển Cảnh Dương (Quảng Trạch) vào giờ giao thừa có tục đi
lấy lửa từ đình làng về. Người dân đồn rằng: Ngọn lửa thiêng của làng
sẽ mang lại cho mỗi gia đình sự ấm no, hạnh phúc và vì thế người ta hết
sức trân trọng, gìn giữ ngọn lửa lấy được đem về nhà mình và cho nó
không bị tắt trong suốt ba ngày Tết. Có lẽ chính vì điều này mà người
Quảng Bình có tục kiêng xin lửa ngày đầu năm. Một số nơi ở Quảng Bình,
sau khi giao thừa xong người ta đi hái lộc đầu năm với mong muốn mình sẽ
gặp được nhiều điều may mắn trong năm tới.
Những
điều kiêng cự nhất trong những ngày Tết của người dân Quảng Bình thường
là không nên nói tiếng to lớn, la hét, con cái không được khóc lóc nói
điều xấu, hay là không quét nhà vào sáng mồng một, chuyện mượn tiền của
người khác... Đặc biệt là kiêng đi chúc Tết vào sáng mồng một Tết nếu
không được gia chủ mời vì sợ rằng mình sẽ mang đến điều không tốt đẹp
cho chủ nhà trong năm mới. Theo phong tục xông đất, người đầu tiên bước
vào nhà ai trong ngày mồng một Tết chính là người quyết định đem lại sự
may mắn hoặc xui xẻo cho gia đình ấy trong cả năm. Vì
thế đa số người đi xông đất là những người làm ăn phát đạt, gặp nhiều
may mắn, nhẹ vía và là bà con thân thích trong gia đình, dòng họ được
chỉ định trước...
Sáng
mồng một, nguời dân Quảng Bình thường đi thăm hỏi ông bà, cô chú bác,
anh em bên ngoại bên nội, tiếp đến là thăm thầy giáo cũ. Mọi người tặng
quà cho nhau và chúc nhau những lời chúc tốt đẹp đầu năm, sau đó mới đến
là thăm hỏi bạn bè, láng giềng. Ngoài những lời chúc thì người dân
thường đề cập đến chuyện làm ăn, buôn bán, học hành qua đó để trao đổi
kim ngiệm với nhau, giúp nhau trong cuộc sống sắp tới....
Thành ngữ Việt Nam có câu "đói giỗ cha, no ba ngày Tết". Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho "trẻ có bát canh, già được manh áo mới". Vì vậy mà người dân Quảng Bình cũng thường gọi là "ăn Tết".
Dân làng biển, ngày Tết dù không sang trọng như chốn kinh kỳ, mâm cỗ
Tết của người dân vùng biển vẩn đậm đà nhiều hương vị, mang nhiều sắc
thái địa phương, đa dạng, phong phú về các loại thức ăn chế biến từ cá,
tôm, cua, mực....
"Tết về câu đối, bánh chưng
Chẳng ham giò, chả, chỉ "ưng" ngứa choè"
Ngoài cơm, cá thường lệ ngày Tết ở Quảng Bình còn có: Bánh truyền thống: bánh chưng, bánh dầy, bánh tét...Đây
cũng là các loại bánh đặc trưng cho phong tục ăn uống ngày Tết ở Việt
Nam. Bánh chưng và bánh dầy còn được gắn với các sự tích cổ của các vua Hùng, tổ tiên của người Việt.
Cỗ Tết: dịp Tết người Quảng Bình thường tổ chức ăn uống, gọi là ăn cỗ. Các món cỗ trong nhiều gia đình có thể có nem rán, xôi gấc, xôi đỗ, thịt gà, nộm, dưa hành muối...
Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Mứt có rất nhiều loại như: mứt gừng, mứt bí, mứt dừa, mứt mít, mứt khoai...
Kẹo bánh thì đa dạng hơn như: Kẹo bột, kẹo dồi, kẹo vừng (mè), kẹo dừa, kẹo cau, bánh chè lam... Ngoài ra, Tết còn có hạt bí....
Thức uống ngày Tết phổ biến nhất ở Quảng Bình vẫn là rượu.
Các loại rượu mang hương vị của vùng miền như rượu trắng ở Võ Xá, rượu
dâu Thuận Lý... thường được dùng và đã đi vào tục ngữ ca dao:
"Nam sâm Bố Trạch
Cua gạch Thanh Khê
Sò nghêu Quán Hàu
Rượu dâu Thuận Lý"
Bên cạnh ấy là người ta thường dùng nước chè xanh. Người dân thường nói với nhau rằng "Mạnh vì gạo, bạo vì chè" là bởi thế.
Những ngày Tết, người dân thường kéo nhau ra đình làng, sân chùa dự lễ hội. Nhiều làng đã tổ chức "rước thần du xuân"
Lễ rước cổ, cổ gà, cổ bánh thực sự là những mâm cổ cao sang, được làm
hết sức chu đáo và tỉ mỉ với sự tài hoa của người nội trợ. Đó là xôi nấu
trăm hạt nở như một, gà luộc đến mức không có một vết rạn nhỏ, bánh làm
hàng chục thứ, phong phú về loại bánh. Từ bánh ngọt đến bánh mặn, đủ
món đủ loại. Qua đó để ta thấy rằng, người dân Quảng Bình chuẩn bị việc
cho lễ cúng thần đặc biệt hết sức coi trọng. Tuỳ mỗi làng, mỗi vùng mà
người ta tổ chức những trò vui khác nhau trong dịp Tết. Ở huyện Lệ Thuỷ
và huyện Quảng Ninh thì thường hay tổ chức đua thuyền trên sông Kiến
Giang, sông Nhật Lệ, hay trò chơi đu, hát bài Chòi đến chọi gà. 
Đua thuyền trên sông Kiến Giang
Ở Bố Trạch có trò đánh cù, huyện Quảng Trạch có tró chơi đánh cờ người, nấu cơm, thi cơm cần, v.v... Trò vui nào nào cũng thu hút đông đảo người dân tham gia và hơn hết là mang tính văn hoa cao. Đặc biệt ở Quảng Bình có "lục niên canh độ" là hội bơi trải trên sông Nhật Lệ. Lễ hội này thường có bốn làng tham gia: Động Hải, Hà Thôn, Phú Đại, Cửa Thôn. Lúc hội đua đến lúc quyết liệt thì nhịp mõ khẩn trương, với tiếng hô "huơ.. huơ ... huơ ...hò..hụi...". Vào ngày cuối cùng của ngày hội người ta tổ chức lễ buông phao nhằm tưởng nhớ những người tử nạn trên sông nước. Các trải lướt từ từ và đồng thanh cất lên một điệu hát trầm buồn:
"Ôm... phao... phao... mà ...về...
Ôm... phê... phê... mà... vào..."
Đó là những tiếng hò, tiếng hát xuất phát từ cảnh gặp nguy hiểm trên
biển cả. Đó như là tiếng kêu cứu, là lời trăn trối cuối cùng của người
chịu chết nhường phao lại cho người thân "cố gắng ôn chặt lấy phao" mà về với gia đình.
Lễ hội này xuất phát từ ước vọng rèn luyện sự nhanh nhẹn, tháo vát,
khéo léo, rèn luyện sức khoẻ và khả năng chiến đấu. Lễ hội mang tính
chất tâm linh, giải trí nhưng chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Trong những ngày Tết có một hoạt động ở các làng quê Quảng bình rất
được chú ý. Đó là những hoạt động mang tính chất nghi lễ nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghịêp. Nguời miền núi ở huyện Tuyên Hoá
và huyện Minh Hoá có lễ "khai sơn" , người làm ruộng có lễ "khai mương", lễ "xuống đồng" ở một số vùng Lệ Thuỷ, Quảng Ninh, lễ "xuất hành" của những người đi biển và lễ "mở hàng"
của những người dân buôn bán ở chợ Ba Đồn và chợ Đồng Hới. Tất cả những
nghi lễ này đều mang ý nghĩa cầu xin thần linh phù giúp cho việc làm ăn
của mọi nhà gặp nhiều thuận lợi và thu gặt kết quả cao. Đó cũng chính
là ước vọng tha thiết, chân thực của những con người suốt đời mình lam
lũ, vất vả, khó nhọc để làm ra thành quả lao động phục vụ cuộc sống xã
hội.
Tuỳ theo điều kiện gia đình mà lễ hạ nêu (hay còn gọi là lễ đưa ông bà về nhà cũ)
diễn ra sớm hay muộn. Tuy nhiên do đặc trưng nghề nghiệp và cuộc sống
người dân còn gặp nhiều khó khăn nên lễ hạ nêu của người dân Quảng Bình
thường diễn ra sau ngày 3 Tết. Ngưòi dân với tấm lòng thành nên có gì
thì dâng cúng lên trời đất, tổ tiên, ông bà. Sau khoảng thời gian Tết
mọi công việc của người dân lại trở về bình thường.
Ngoài
ngày Tết Nguyên Đán người dân Quảng Bình cũng có những ngày Tết khác
như: Tết Nguyên Tiêu, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung Thu...Các ngày Tết này tuy
không tổ chức trọng thể như ngày Tết Nguyên Đán nhưng cũng rất được coi
trọng. Tết Nguyên Tiêu nhằm ngày rằm tháng Giêng. Người Quảng Bình dù
theo Phật giáo hay không thì cũng biết câu: "Lễ cả năm không bằng rằm tháng Giêng". Thế
nên, ngày này gia đình nào cũng làm lễ cúng rất trọng thể. Ngày Tết
Trung Thu là ngày Tết chung cho tất cả mọi người. Theo các nhà thiên văn
học đây là ngày trăng tròn nhất trong năm. Theo phong tục người Việt,
vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bày cỗ cho các con để mừng Trung Thu, mua
và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con
rước đèn. Cỗ mừng trung thu gồm bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi và các
thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để cha mẹ tùy theo khả năng kinh tế gia
đình thể hiện tình thương yêu con cái một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu
thương trong gia đình càng thêm gắn bó. Ngày Tết này phần lễ được tổ
chức đơn giản nhưng quan trọng là phần hội. Rằm Trung Thu là ngày vui
chơi, ngày Tết của các cháu thiếu niên, nhi đồng. Người lớn bày những
mâm cỗ với nhiều loại hoa quả, làm đèn ông sao, đèn táo quân cho các em
nhỏ rước đèn...
Các ngày Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ hay Tết Trung Thu...là dịp người
dân cúng bái cầu cho gia đình, làng xóm, đất nước được bình yên, no
ấm...là dịp nghỉ ngơi, vui chơi thể hiện tinh thần gắn kết của cộng đồng
của cư dân Quảng Bình. Tết là ngày thiêng liêng trong năm, mỗi ngày Tết
có cách thức cúng lễ khác nhau. Lễ Tết là một nét đẹp phong tục, tập
quán của cư dân Quảng Bình.
Tết
truyền thống hàng năm là một dịp lễ trọng đại nhất của toàn dân tộc
Việt Nam nói chung và người dân Quảng Bình nói riêng. Tết là nhịp cầu
nối mỗi gia đình với nhau thông qua một văn hóa chung, một phong tục tập
quán, những nghi lễ truyền thống lâu đời ở trên xứ sở quê hương. Phong
tục Tết Quảng Bình ngày nay có những nét thay đổi so với phong tục Tết
truyền thống ngày xưa. Có thể điểm qua vài nét sau:
Một số phong tục Tết truyền thống bị lãng quên hay mai một dần như tục
thờ cây nêu ngày Tết ở một vài nơi đặc biệt là ở thành phố và thị trấn
hiếm thấy, các trò chơi dân gian trong dịp Tết ít gặp như chọi dế, chơi
đu, chơi pháo tép...Thay vào đó là khung cảnh vui chơi, ăn uống, không
khí rộn ràng bởi ai cũng muốn ra đường ngắm phố, ngắm người hoặc xem bắn
pháo hoa ở tại thành phố Đồng Hới vào đêm giao thừa. Thời gian vui chơi
trong dịp Tết kéo dài hơn nên mọi người tự tìm cho mình một sở vui
chơi.
Do đời sống của người dân ngày càng thay đổi nên phong tục tặng quà
trong ngày Tết hết sức phong phú từ kẹo bánh, hoa quả đến rượu bia hay
lì xì tiền trong dịp Tết. Ẩm thực ngày Tết ở Quảng Bình cũng có những
nét mới.
Ngày
xưa, trên bàn thờ tổ tiên, ông bà, người dân Quảng Bình luôn đặt những
món ăn truyền thống để tỏ lòng hiếu kính với ông bà, tổ tiên như bánh
chưng, bánh giầy, mâm ngũ quả, rượu đế... Nhưng ngày nay, cuộc sống được
nâng cao, trên bàn thờ lại có thêm rượu tây, bia, bánh hộp... Mâm cơm
ngày Tết thịnh soạn hơn với những món ăn tiếp biến từ phương Tây. Đó là
súp gà, súp thịt, xốt cá, xốt bò...
Như vậy những thay đổi trong phong tục lễ Tết truyền thống Quảng Bình
là quy luật chung của xã hội Việt Nam trong xu thế hội nhập hiện nay, và
nhận thức của con người trong tác động của kinh tế thị trường nhằm phù
hợp với đời sống mới. Vấn đề đặt ra ở đây là nêu cao ý thức với mọi
người dân Quảng Bình về bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của
phong tục Tết truyền thống Quảng Bình.
Phong
tục lễ Tết của người Quảng Bình in đậm dấu ấn của quê hương, xứ sở. Khi
đông hết, Tết đến người người, nhà nhà nô nức sắm sửa chuẩn bị đón
xuân. Trong dịp này gia đình sum họp, không chỉ những người sống mà linh
hồn của ông bà, tổ tiên cũng về hội ngộ cùng con cháu. Năm cũ qua đi,
năm mới đến, người ta cầu mong những điều tốt lành đến với gia đình, xóm
làng, đất nước. Việc cúng bái ngày Tết là truyền thống tốt đẹp của
người Quảng Bình nói riêng và người Việt nói chung. Phong tục Bắc, Nam
mỗi nơi mỗi khác nhưng đều là con Lạc, cháu Hồng, đều câu đối đỏ, bánh
chưng xanh.
Nét
đẹp trong ngày Tết cổ truyền của người Quảng Bình chính là những quan
niệm về cách ăn Tết. Ngày Tết không cần mâm cao cỗ đầy, không cần sơn
hào hải vị mà người ta chuộng những sản vật bình dị gần gũi với họ. Ngày
Tết còn là dịp để tổ chức vui chơi, thăm hỏi, chúc tụng nhau. Các trò
chơi ngày Tết thường biểu thị tinh thần đoàn kết tập thể mang lại sự hân
hoan, phấn khởi cho cả người chơi và người xem. Vì thế ăn Tết, chơi Tết
như thế nào cũng thể hiện nét văn hoá riêng của mỗi vùng quê.
Nét đẹp phong tục lễ Tết Quảng Bình là những giá trị văn hoá kết tinh
nên từ hàng ngàn đời nay. Các thế hệ cha ông đi trước đã truyền lại cho
con cháu những truyền thống, những tập tục tốt đẹp. Từ đó chúng ta thế
hệ trẻ nên có ý thức bảo tồn và phát huy những giá trị phong tục Tết
truyền thống Quảng Bình, nhằm lưu giữ được nét văn hoá độc đáo của vùng
đất, quê hương hai giỏi: "Chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi".
Trước hết cần phải tuyên truyền, đổi mới và nâng cao nhận thức cho mọi
tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí, ý nghĩa của các giá trị văn hoá
truyền thống nằm trong phong tục. Mà nổi lên là vấn đề lưu giữ, bảo tồn
những phong tục tốt đẹp ngày Tết nói riêng và các phong tục khác nói
chung. Đây là yếu tố rất quan trọng góp phần vào việc giữ gìn và phát
triển văn hoá dân gian Quảng Bình. Phải coi việc giữ gìn phát huy giá
trị văn hoá truyền thống của phong tục ngày Tết là tâm huyết, trách
nhiệm của mọi người, mọi thế hệ nhân dân Quảng Bình.
Giữ gìn và phát huy nét đẹp phong tục lễ Tết truyền thống phải đi đôi
với việc bài trừ mê tín, dị đoan, khắc phục hủ tục lạc hậu hoặc gây nên
tốn kém, lãng phí ảnh hưởng đến đời sống của người dân trong dịp Tết.
Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống trong phong tục
Tết là một khâu quan trọng trong việc xây dựng quê hương Quảng Bình phát
triển, giàu đẹp trong thời đại mới. Để cho văn hoá vừa là mục tiêu, vừa
là động lực phát triển kinh tế, xã hội của quê hương, tiến bước vào
công cuộc xây dụng đất nước văn minh, giàu mạnh.

Một góc của thành phố Đồng Hới
Quảng
Bình miền quê gió Lào, cát trắng tựa mình bên dãy Trường Sơn đến ngày
đón gió biển Đông dạt dào sống vỗ. Thiên nhiên đất trời đã tạo nên người
dân Quảng Bình chất phác, đôn hậu, cần cù lao động, giàu lòng nhân ái
và anh hùng trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Sống trong khó khăn,
chiến tranh nên nghèo khó cứ đeo đẳng con người vùng đất này nhưng họ
vẫn không hề nhụt chí, phiền não mà luôn ham sống, yêu đời, chấp nhận
thử thách để vượt lên thay đổi như diện mạo ngày nay. Hơn 60 năm qua
trên mảnh đất này đã in dấu biết bao chiến công chói lọi. Quảng Bình là
niềm cảm hứng vô tận cho bao thế hệ các nhà văn hóa tìm hiểu, nghiên
cứu, các nghệ sĩ dâng trào cảm xúc viết về quê hương xứ sở, con người,
thắng cảnh và các sinh hoạt phong tục, tập quán, lễ hội mãi mãi đi vào
kí ức trong mỗi người dân Quảng Bình nói riêng và người Việt Nam nói
chung.
Phong
tục lễ Tết truyền thống ở Quảng Bình là kết tinh những giá trị văn hoá
mà cha ông truyền lại từ hàng ngàn đời nay. Phong tục lễ Tết mang đậm
dấu ấn của thiên nhiên, con người và văn hoá nơi đây. Đó chính là dấu ấn
văn hóa của cư dân nông nghiệp lúa nước và đồng bằng ven biển.