SGTT.VN - Vào đầu năm 1988, vùng 4 Hải quân tuyển chọn
hơn 300 người lính ở tỉnh Quảng Bình. Một số ít trong đó được học tập,
huấn luyện làm nhiệm vụ khác, số còn lại được đưa lên các tàu ra làm
nhiệm vụ canh giữ, bảo vệ các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Trong trận
hải chiến ngày 14.3.1988, tỉnh Quảng Bình có nhiều chiến sĩ hy sinh nhất
– 13 người.
Những năm tháng tù đày
|
Mai
Xuân Hải với tấm bằng Huân chương chiến công hạng ba vì “đã có thành
tích xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường
Sa”.
|
Xã miền núi Tây Trạch (huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình)
là địa phương có số người lính tham gia bảo vệ đảo Gạc Ma nhiều nhất
huyện – tám người. Còn ở xã Hoàn Trạch nằm giáp ranh Tây Trạch có sáu
người. 25 năm kể từ sau trận hải chiến ở đảo Gạc Ma, anh cựu binh Lê Văn
Đông ở thôn Rẫy lần giở lại những gì mình đã có, trong đó có cả giấy
báo tử của... chính mình.
Nhớ lại ngày xảy ra trận hải chiến vào năm 1988, anh
Đông kể: “Khi chiếc tàu 604 của ta bị bắn chìm, trên tàu có chừng 120
người thì có gần 100 người lính quê ở tỉnh Quảng Bình. Tàu Trung Quốc
bắn dồn dập pháo hạng nặng, trong khi phía ta không bắn trả lại”. Tàu bị
chìm, Đông vớ được một mảnh ván, trôi lênh đênh trên biển đến khoảng
cuối giờ chiều thì bị tàu Trung Quốc chạy ngang bắt giữ. Cùng bị bắt với
anh Đông còn có hai người lính đồng hương của huyện Bố Trạch, đó là anh
Mai Xuân Hải (xã Liên Trạch), anh Nguyễn Văn Thống (xã Nhân Trạch) và
nhiều đồng đội của anh ở các miền quê khác.
“Chúng tôi bị bắt lên tàu, bị trói gô lại. Ngày đầu
tiên bị lính Trung Quốc bắt giữ, chúng đưa cho anh em chúng tôi gồm chín
người một cái cốc thuỷ tinh rất to, nhưng trong đó lượng nước chỉ có
khoảng một đốt tay để uống. “Mỗi người chỉ thấm môi cho đỡ khô miệng”,
anh Hải kể. Khi kể về chuyện ăn uống ở trong tù, anh Hải nói: “Bữa sáng,
chúng cho chúng tôi ăn miếng bánh mì, trưa tối vẫn có cơm, nhưng nước
gạo nhạt lắm, không có tí muối nào cho mặn mà, suốt năm ăn nhạt như thế,
nên tôi bị phù thủng”.
Còn trong ký ức của anh Đông những tháng ngày đầu tiên
bị tù đày ở bán đảo Lôi Châu, thật đáng sợ. “Chúng nhốt chúng tôi biệt
lập mỗi người một phòng trong căn nhà hai tầng. Trong hai tháng đầu tiên
sau khi bị bắt, cứ mỗi buổi sáng, chiều là chúng dựng chúng tôi dậy để
hỏi cung về quân số bao nhiêu, vũ khí loại gì… Tất cả chúng tôi đều nói
không biết, bởi vì, chúng tôi là người lính, chỉ biết mỗi nhiệm vụ được
giao là bảo vệ chủ quyền biển đảo. Chừng sau một năm rưỡi bị biệt giam
trong phòng, lính Trung Quốc mới cho chúng tôi ra ngoài hành lang tắm
nắng. Bữa đầu tiên, nhìn thấy anh em, ai cũng mừng mừng, tủi tủi, nhưng
họ không cho anh em chúng tôi nói chuyện nên chúng tôi chỉ nhìn nhau và
biết rằng không ai bị mất trong số chín người”.
Trở về sau giấy báo tử
Trước khi lên đường nhập ngũ, anh Lê Văn Đông đã cưới
vợ. Sau đêm tân hôn, anh phải khoác balô theo đơn vị. Sau trận chiến
ngày 14.3.1988, cuối năm đó, giấy báo tử của anh Đông được gửi về quê
hương Tây Trạch. Chị Nguyễn Thị Thương, vợ anh Đông, chết đứng với đứa
con nhỏ còn đỏ hỏn bồng trên tay. “Nhận giấy báo tử, tui suy sụp tinh
thần, bọ mạ (cha, mẹ) bên chồng tuyệt vọng vô cùng, nhưng trong cái
tuyệt vọng đó, cứ nhìn vào mặt con, tui lại nuôi chút ít hy vọng”, chị
Thương nói. Cha của anh Đông, ông Lê Văn Bố nhớ lại: “Ngày nhận giấy báo
tử, chính quyền địa phương cùng huyện đội cử cán bộ đến thông báo, mấy
đứa em hắn khóc như ri, mạ hắn ngất lên ngất xuống, còn tui thì bỏ bê cả
chuyện đồng áng”.
Không chỉ riêng anh Đông, gia đình anh Mai Xuân Hải,
Nguyễn Văn Thống cũng nhận “giấy báo tử” của các anh. Cha mẹ của anh
Đông không tin con mình đã chết nên họ chưa lập trang thờ. Còn cha mẹ
của anh Hải, anh Thống thì đã bày biện bàn thờ, và lấy ngày nhận “giấy
báo tử” là ngày cúng giỗ. Trong quân cảng Cam Ranh, ở đài tưởng niệm các
anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến ngày 14.3.1988 vẫn có tên
của anh Đông, Hải và Thống.
Anh Đông kể: “Tui bị tù đày đúng ba năm, năm tháng, 15
ngày, sau đó tui cùng đồng đội được trao trả về quê hương”. Theo anh
Đông, sở dĩ anh nhớ rõ ngày tháng bị tù đày là do mỗi ngày đi qua, anh
vạch lên phía góc tường giam một vết hằn sâu.
Ngày cả ba anh bất ngờ xuất hiện ở làng, thôn Rẫy vui
như hội. Ông Lê Văn Bố nói: “Tui đang chự trâu ngoài đồng, ngày đó là
đầu năm 1991, hắn về, cả làng đi tìm tui, rứa là tui quất trâu phi nước
đại về nhà, ôm con mà khóc. Khi hắn chưa về tui không khóc, nhưng hắn
về, tui khóc. Nhà nghèo lắm, nhưng tui cũng bán thóc, vay mượn mua ba
phong pháo thật to đốt, rồi xóm làng mở cơm ăn mừng hắn”.
Tương tự như anh Đông, ở vùng quê Liên Trạch, anh Mai
Xuân Hải đã trở về căn nhà xưa ở hóc núi, mọi người trong làng quây quần
đông đúc, có người nắm tay, kẻ day má xem anh Hải có phải là người thật
hay là ma. Mỗi người dân trong làng góp ít gạo nếp, cùng gia đình anh
Hải mở cỗ mừng đứa con của làng trở về. Còn ở vùng biển Nhân Trạch, anh
Thống cũng được đón tiếp bởi vòng tay yêu thương của người dân trong
làng và gia đình.
Những nghiệt ngã của số phận
|
Giấy báo tử của hạ sĩ Mai Xuân Hải vào cuối năm 1988, lúc đó người lính ở Gạc Ma này đang bị Trung Quốc giam giữ tại Lôi Châu.
|
Thế nhưng, không bao lâu sau ngày đoàn viên, những
người lính anh hùng trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo trở về
quê hương đã phải hứng chịu bao nghiệt ngã của số phận. Có những người
lính hiện đã mất vì bệnh ung thư trong cảnh nghèo khó, như anh Dương
Đình Lê ở Tây Trạch, để lại vợ cùng ba đứa con thơ dại; hoặc anh Nguyễn
Văn Hải, quê ở Liên Trạch, vừa từ trần, để lại vợ và bốn đứa con thơ côi
cút trong cảnh gia đình nghèo khó.
Riêng anh Mai Xuân Hải, anh Đông và anh Thống trở về
với tấm bằng Huân chương chiến công hạng ba: “Đã có thành tích xuất sắc
trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa”. Sau khi
trở về quê hương, đoàn tụ gia đình, các anh phải lao động cần cù, chịu
thương chịu khó để mưu sinh. Một số người lính trong số đó có cuộc sống
khấm khá, nhưng đa phần họ đều nghèo.
Anh Mai Xuân Hải, sau ngày đoàn viên, đã lập gia đình,
có bốn người con, nhưng do hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn, những đứa
con của anh lần lượt bỏ học để kiếm kế mưu sinh, chỉ còn đứa con út đang
được học ít chữ nghĩa. Mỗi năm, anh Hải thường bị đau ốm, mất tám tháng
nằm ở viện, vợ anh buộc phải trở thành “tiều phu” hái củi trên núi, mỗi
ngày xuống chợ bán kiếm ít tiền để mua thuốc cho chồng. Trong người anh
Hải hiện còn tám mảnh đạn do cuộc chiến để lại, nên mỗi khi trái gió
trở trời, anh phải nhờ vợ chăm sóc. Theo anh Hải, anh muốn xin giấy
chứng nhận thương binh, nhưng chính quyền xã bao nhiêu năm nay chưa thực
hiện, vì nhiều lý do. Hộ của anh Hải thuộc diện nghèo, nhưng không được
cho vào danh sách hộ nghèo. “Tủi thân lắm chú ơi”, chị Đinh Thị Diện,
vợ anh Hải thở dài nói.
bài và ảnh: Quốc Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét