Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

Sự kiện Đảo Gạc Ma: Bài 2: Những người trở về sau giấy báo tử


SGTT.VN - Vào đầu năm 1988, vùng 4 Hải quân tuyển chọn hơn 300 người lính ở tỉnh Quảng Bình. Một số ít trong đó được học tập, huấn luyện làm nhiệm vụ khác, số còn lại được đưa lên các tàu ra làm nhiệm vụ canh giữ, bảo vệ các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Trong trận hải chiến ngày 14.3.1988, tỉnh Quảng Bình có nhiều chiến sĩ hy sinh nhất – 13 người.
Những năm tháng tù đày
Mai Xuân Hải với tấm bằng Huân chương chiến công hạng ba vì “đã có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa”.
Xã miền núi Tây Trạch (huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình) là địa phương có số người lính tham gia bảo vệ đảo Gạc Ma nhiều nhất huyện – tám người. Còn ở xã Hoàn Trạch nằm giáp ranh Tây Trạch có sáu người. 25 năm kể từ sau trận hải chiến ở đảo Gạc Ma, anh cựu binh Lê Văn Đông ở thôn Rẫy lần giở lại những gì mình đã có, trong đó có cả giấy báo tử của... chính mình.
Nhớ lại ngày xảy ra trận hải chiến vào năm 1988, anh Đông kể: “Khi chiếc tàu 604 của ta bị bắn chìm, trên tàu có chừng 120 người thì có gần 100 người lính quê ở tỉnh Quảng Bình. Tàu Trung Quốc bắn dồn dập pháo hạng nặng, trong khi phía ta không bắn trả lại”. Tàu bị chìm, Đông vớ được một mảnh ván, trôi lênh đênh trên biển đến khoảng cuối giờ chiều thì bị tàu Trung Quốc chạy ngang bắt giữ. Cùng bị bắt với anh Đông còn có hai người lính đồng hương của huyện Bố Trạch, đó là anh Mai Xuân Hải (xã Liên Trạch), anh Nguyễn Văn Thống (xã Nhân Trạch) và nhiều đồng đội của anh ở các miền quê khác.
“Chúng tôi bị bắt lên tàu, bị trói gô lại. Ngày đầu tiên bị lính Trung Quốc bắt giữ, chúng đưa cho anh em chúng tôi gồm chín người một cái cốc thuỷ tinh rất to, nhưng trong đó lượng nước chỉ có khoảng một đốt tay để uống. “Mỗi người chỉ thấm môi cho đỡ khô miệng”, anh Hải kể. Khi kể về chuyện ăn uống ở trong tù, anh Hải nói: “Bữa sáng, chúng cho chúng tôi ăn miếng bánh mì, trưa tối vẫn có cơm, nhưng nước gạo nhạt lắm, không có tí muối nào cho mặn mà, suốt năm ăn nhạt như thế, nên tôi bị phù thủng”.
Còn trong ký ức của anh Đông những tháng ngày đầu tiên bị tù đày ở bán đảo Lôi Châu, thật đáng sợ. “Chúng nhốt chúng tôi biệt lập mỗi người một phòng trong căn nhà hai tầng. Trong hai tháng đầu tiên sau khi bị bắt, cứ mỗi buổi sáng, chiều là chúng dựng chúng tôi dậy để hỏi cung về quân số bao nhiêu, vũ khí loại gì… Tất cả chúng tôi đều nói không biết, bởi vì, chúng tôi là người lính, chỉ biết mỗi nhiệm vụ được giao là bảo vệ chủ quyền biển đảo. Chừng sau một năm rưỡi bị biệt giam trong phòng, lính Trung Quốc mới cho chúng tôi ra ngoài hành lang tắm nắng. Bữa đầu tiên, nhìn thấy anh em, ai cũng mừng mừng, tủi tủi, nhưng họ không cho anh em chúng tôi nói chuyện nên chúng tôi chỉ nhìn nhau và biết rằng không ai bị mất trong số chín người”.
Trở về sau giấy báo tử
Trước khi lên đường nhập ngũ, anh Lê Văn Đông đã cưới vợ. Sau đêm tân hôn, anh phải khoác balô theo đơn vị. Sau trận chiến ngày 14.3.1988, cuối năm đó, giấy báo tử của anh Đông được gửi về quê hương Tây Trạch. Chị Nguyễn Thị Thương, vợ anh Đông, chết đứng với đứa con nhỏ còn đỏ hỏn bồng trên tay. “Nhận giấy báo tử, tui suy sụp tinh thần, bọ mạ (cha, mẹ) bên chồng tuyệt vọng vô cùng, nhưng trong cái tuyệt vọng đó, cứ nhìn vào mặt con, tui lại nuôi chút ít hy vọng”, chị Thương nói. Cha của anh Đông, ông Lê Văn Bố nhớ lại: “Ngày nhận giấy báo tử, chính quyền địa phương cùng huyện đội cử cán bộ đến thông báo, mấy đứa em hắn khóc như ri, mạ hắn ngất lên ngất xuống, còn tui thì bỏ bê cả chuyện đồng áng”.
Không chỉ riêng anh Đông, gia đình anh Mai Xuân Hải, Nguyễn Văn Thống cũng nhận “giấy báo tử” của các anh. Cha mẹ của anh Đông không tin con mình đã chết nên họ chưa lập trang thờ. Còn cha mẹ của anh Hải, anh Thống thì đã bày biện bàn thờ, và lấy ngày nhận “giấy báo tử” là ngày cúng giỗ. Trong quân cảng Cam Ranh, ở đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến ngày 14.3.1988 vẫn có tên của anh Đông, Hải và Thống.
Anh Đông kể: “Tui bị tù đày đúng ba năm, năm tháng, 15 ngày, sau đó tui cùng đồng đội được trao trả về quê hương”. Theo anh Đông, sở dĩ anh nhớ rõ ngày tháng bị tù đày là do mỗi ngày đi qua, anh vạch lên phía góc tường giam một vết hằn sâu.
Ngày cả ba anh bất ngờ xuất hiện ở làng, thôn Rẫy vui như hội. Ông Lê Văn Bố nói: “Tui đang chự trâu ngoài đồng, ngày đó là đầu năm 1991, hắn về, cả làng đi tìm tui, rứa là tui quất trâu phi nước đại về nhà, ôm con mà khóc. Khi hắn chưa về tui không khóc, nhưng hắn về, tui khóc. Nhà nghèo lắm, nhưng tui cũng bán thóc, vay mượn mua ba phong pháo thật to đốt, rồi xóm làng mở cơm ăn mừng hắn”.
Tương tự như anh Đông, ở vùng quê Liên Trạch, anh Mai Xuân Hải đã trở về căn nhà xưa ở hóc núi, mọi người trong làng quây quần đông đúc, có người nắm tay, kẻ day má xem anh Hải có phải là người thật hay là ma. Mỗi người dân trong làng góp ít gạo nếp, cùng gia đình anh Hải mở cỗ mừng đứa con của làng trở về. Còn ở vùng biển Nhân Trạch, anh Thống cũng được đón tiếp bởi vòng tay yêu thương của người dân trong làng và gia đình.
Những nghiệt ngã của số phận
Giấy báo tử của hạ sĩ Mai Xuân Hải vào cuối năm 1988, lúc đó người lính ở Gạc Ma này đang bị Trung Quốc giam giữ tại Lôi Châu.
Thế nhưng, không bao lâu sau ngày đoàn viên, những người lính anh hùng trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo trở về quê hương đã phải hứng chịu bao nghiệt ngã của số phận. Có những người lính hiện đã mất vì bệnh ung thư trong cảnh nghèo khó, như anh Dương Đình Lê ở Tây Trạch, để lại vợ cùng ba đứa con thơ dại; hoặc anh Nguyễn Văn Hải, quê ở Liên Trạch, vừa từ trần, để lại vợ và bốn đứa con thơ côi cút trong cảnh gia đình nghèo khó.
Riêng anh Mai Xuân Hải, anh Đông và anh Thống trở về với tấm bằng Huân chương chiến công hạng ba: “Đã có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa”. Sau khi trở về quê hương, đoàn tụ gia đình, các anh phải lao động cần cù, chịu thương chịu khó để mưu sinh. Một số người lính trong số đó có cuộc sống khấm khá, nhưng đa phần họ đều nghèo.
Anh Mai Xuân Hải, sau ngày đoàn viên, đã lập gia đình, có bốn người con, nhưng do hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn, những đứa con của anh lần lượt bỏ học để kiếm kế mưu sinh, chỉ còn đứa con út đang được học ít chữ nghĩa. Mỗi năm, anh Hải thường bị đau ốm, mất tám tháng nằm ở viện, vợ anh buộc phải trở thành “tiều phu” hái củi trên núi, mỗi ngày xuống chợ bán kiếm ít tiền để mua thuốc cho chồng. Trong người anh Hải hiện còn tám mảnh đạn do cuộc chiến để lại, nên mỗi khi trái gió trở trời, anh phải nhờ vợ chăm sóc. Theo anh Hải, anh muốn xin giấy chứng nhận thương binh, nhưng chính quyền xã bao nhiêu năm nay chưa thực hiện, vì nhiều lý do. Hộ của anh Hải thuộc diện nghèo, nhưng không được cho vào danh sách hộ nghèo. “Tủi thân lắm chú ơi”, chị Đinh Thị Diện, vợ anh Hải thở dài nói.
bài và ảnh: Quốc Nam

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét