SGTT.VN - Trận hải chiến ngày 14.3.1988 đã trôi qua 25
năm, nhiều cựu binh có mặt trong cuộc chiến giữ đảo Gạc Ma của cha ông
để lại hiện tản mác mỗi người mỗi nghề, mỗi người mỗi nơi, người còn kẻ
mất. Và trong cuộc sống chộn rộn hôm nay, chúng tôi may mắn gặp được một
người trực tiếp có mặt tại Gạc Ma hôm ấy giữa nghĩa trang liệt sĩ khi
anh đến viếng đồng đội của mình sau 25 năm xa cách.
Cựu binh Lê Hữu Thảo gặp mẹ anh hùng Trần Văn Phương ở nghĩa trang liệt sĩ xã Quảng Phúc, Quảng Trạch, Quảng Bình.
|
Trước mắt chúng tôi là cựu binh Trường Sa, anh Lê Hữu
Thảo, quê ở xã Hương Thuỷ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Nhìn dáng
người nhỏ thó, ít ai biết anh là nhân chứng của trận hải chiến ngày
14.3.1988, chính anh là người khâm liệm anh hùng liệt sĩ Trần Văn Phương
quê ở Quảng Bình. Sau 25 năm về đất liền, anh Thảo vẫn một mình mưu
sinh, vất vả trong căn gác trọ ở thành phố Hà Tĩnh.
Sau 25 năm
Cựu binh Lê Hữu Thảo nay đã 49 tuổi, và với anh, trận
hải chiến trên đảo Gạc Ma đã ám ảnh suốt cuộc đời. Phục viên, trở về
quê, nhưng Thảo không biết mộ phần người thủ trưởng của mình – anh Trần
Văn Phương, hy sinh trên đảo Gạc Ma từ 25 năm trước – ở làng quê nào tại
Quảng Bình để đến hương khói. Những ngày đầu năm 2013, tức sau 25 năm
sau trận hải chiến, được sự giúp đỡ của một số nhà báo, anh Thảo mới vào
được làng Đơn Sa, đến nghĩa trang liệt sĩ xã viếng mộ phần thủ trưởng
của mình.
Biết anh Phương còn người mẹ là Hồ Thị Đức (75 tuổi),
Thảo tìm bằng được và đưa mẹ Đức ra nghĩa trang Tổ quốc ghi công. Trước
nghi ngút khói hương, Thảo nói: “Em về mà mãi 25 năm mới tìm được quê
anh, Hà Tĩnh vô đây có ngái ngôi chi, rứa mà phải mất 25 năm trời, hôm
nay gặp anh, gặp được mạ (mẹ), em xin kính hương về sự chậm trễ này”. Mẹ
Hồ Thị Đức nhìn Thảo rồi khóc. Về thăm nhà ở làng Đơn Sa, mẹ Đức hỏi
Thảo, “Con ăn chi để mạ nấu?” nhà mẹ cũng khó khăn, anh Thảo nhìn thấy
đậu phộng và bắp rang liền nói: “Cho con mớ lạc rang, mớ ngô rang này về
quê...”.
Thiêng liêng hai từ tổ quốc
Giữa những làn hương, bên mộ anh hùng liệt sĩ Trần Văn
Phương, Thảo nhớ lại: “Sáng sớm dậy, tầm 6 giờ ngày 14.3.1988, anh
Phương với anh Phong nói tôi xuống đảo Gạc Ma để chỉ huy cắm cờ. Gọi
thêm mấy chiến sĩ nữa, tôi rồi anh Phương để xuống chiếc xuồng do công
binh hạ xuống để vào ở bãi san hô. Lúc đó thuỷ triều xuống, lòi san hô
ra, chúng tôi xuống cắm cọc để khi đưa cờ xuống thì cắm vào cái cọc ấy.
Xuống đó tầm mười phút thì có thêm đồng chí Lanh bên phía công binh tới,
bọn tôi khoảng sáu người có mặt ở bãi san hô. Chừng một lát sau thì anh
em công binh bên bộ phận E83, cũng đến để bỏ hàng và vật liệu xuống để
xây dựng nhà nổi đóng quân”.
Chưa đầy một tiếng sau, ba chiếc tàu Trung Quốc xuất
hiện, cho thả thuyền máy và đổ quân xuống, khoảng 50 lính, mỗi lính mang
một khẩu AK, đứng thành một vòng cung, bao vây chỗ các anh đang làm
nhiệm vụ. “Cùng lúc, hai xuồng máy của Trung Quốc chạy đến tàu mình
khiêu khích, thách thức mình như muốn mình nổ súng trước, nhưng anh em
rất bình tĩnh mặc dù tình hình căng như dây đàn. Trước đó, xuồng công
binh của chúng ta đi vào, cách chỗ chúng tôi vài chục mét, bộ đội công
binh chuyển cờ xuống cho anh em như anh Phong, anh Phương, còn tôi đứng ở
vị trí cái cọc để chuẩn bị cắm cờ. Khi cờ Tổ quốc chưa chuyền đến chỗ
tôi, thì lính chỉ huy Trung Quốc cầm súng ngắn bắn chỉ thiên”, Thảo kể.
Thảo nói, thực hiện quyết tâm giữ đảo, cũng như tuân
thủ tuyệt đối mệnh lệnh của cấp trên: Không được phép tự ý nổ súng trước
để Trung Quốc lấy cớ leo thang xung đột, các chiến sĩ hải quân và công
binh Việt Nam đã chiến đấu, giành giật lá cờ Tổ quốc với lính đổ bộ của
Trung Quốc bằng tay không. Tuy nhiên, ngay sau phát súng chỉ thiên,
“lính Trung Quốc lao đến, một tên chĩa súng vào đồng chí Tư, anh Lanh
xông vào kéo tôi ra, lính Trung Quốc dùng lê đâm vào người tôi, tôi ngả
người ra sau, tránh được mũi lê, tôi lặn xuống, chúng bắn theo vết lặn,
lúc đó mọi thứ xung quanh chỉ toàn tiếng đạn nổ vì tàu của Trung Quốc
cũng bắn lên tàu mình xối xả. Bắn xong, chúng rút quân lên năm chiếc
xuồng máy, một số ít rút ra cuối đảo Gạc Ma. Lúc này ai cũng biết anh
Phương đã trúng đạn và hy sinh. Trước lúc mất, anh vẫn hô to với anh em
“hãy giữ vững cờ Tổ quốc, giữ vững đảo của chúng ta”, Thảo nói giọng xúc
động.
Khi bơi vào bờ, thấy năm đến sáu đồng chí của mình đang
đứng bên các thành xuồng, Thảo nói phải tản ra để giảm bị sát thương,
ai còn khoẻ thì lội ra xem có vớt được vũ khí, đồng đội của mình không.
“Tôi cùng đồng chí Chúc lội ra, cách xuồng 20m thì kiếm được đồng chí
Lanh đang bị thương nặng cùng thi thể anh Phương. Trong con nước lớn,
tôi cố bơi ra xa hơn, đến chỗ tàu chìm thì nghe tiếng rên và tôi vớt
được anh Hải, lúc đó bị bỏng nặng, đang nằm trên đống phao cá nhân. Sau
khi đưa được Hải lên xuồng, tôi lại bơi đi, qua chỗ tàu chìm một đoạn
xa, thấy một người đang ôm một cái thùng, có vệt máu chảy bên má, tôi
nhô người lên gọi, nhưng không nghe tiếng trả lời. Rồi sóng biển quá
mạnh đã cuốn đi người đồng đội của chúng tôi. Thuỷ triều lên cao, đảo
Gạc Ma lúc này bị chìm dần, chúng tôi không thể lặn tìm được gì thêm”,
Thảo kể.
Theo Thảo, quanh xuồng lúc đó có bảy người, nhưng xuồng
bị bắn nát, thủng cả đáy, trong khi trên xuồng là anh Hải đang bị
thương và thi thể anh Phương. Vật lộn gần một giờ trong con nước lớn,
mọi người phải xé áo trám chỗ thủng, dùng tay tát nước ra. Ai biết bơi
thì bám vào hai bên, ai không biết bơi thì ngồi trên xuồng chèo bằng
tay, chèo về phía đảo Cô Lin, cách Gạc Ma gần mười cây số, nơi có tàu
505 của ta. Đến hơn hai giờ chiều, anh Thảo và đồng đội vớt thêm được
một chiến sĩ tên Hưng người Hải Phòng, là máy trưởng của tàu 505. Tàu
cũng bị tấn công. Những chiến sĩ trên tàu 505 đưa xuồng máy ra cấp cứu.
Tối hôm đó, từ tàu 505, thi thể anh Phương được đưa về đảo Sinh Tồn.
“Suốt đêm hôm đó, tôi cùng đồng chí Chúc ngồi canh xác anh Phương. Sáng
hôm sau, tôi tiến hành khâm liệm, rồi cả đơn vị an táng anh Phương theo
thủ tục quân đội ở đảo Sinh Tồn”, Thảo nhớ lại.
Thảo kể: “Anh Phương thương anh em lắm, có gì cũng sẻ
chia, biết anh em khổ cực, thủ trưởng của tôi luôn nhường những phần ưu
tiên của mình để đồng đội cùng được hưởng”. Thảo cho biết sau đó mười
ngày, anh được đưa vào bờ Cam Ranh trong sự ngăn chặn của tàu Trung
Quốc. Tuy nhiên, vì trên tàu chở anh treo cờ chữ thập nên không bị tấn
công. Tại Cam Ranh, các anh được tiếp đón chu đáo, được gặp gỡ báo chí,
truyền hình, được các địa phương tặng quà, áo quần, kem đánh răng, sách
báo...
Điều ước cuối cùng
Sau khi ra quân vào cuối tháng 7.1988 với quân hàm
trung sĩ, anh Thảo về quê làm đủ thứ nghề để mưu sinh, trong đó, có thời
gian anh đi lao động nước ngoài để mong kiếm được chút vốn nhưng đến
giờ ở tuổi 49, người cựu binh Lê Hữu Thảo trở về từ trận hải chiến Gạc
Ma vẫn một mình, không vợ, không nhà cửa, không nghề nghiệp ổn định, anh
thuê căn gác trọ nhỏ ở thành phố Hà Tĩnh đợi ai thuê gì làm nấy. Miền
quê Hương Thuỷ của anh cũng khó khăn, cha mẹ anh sinh được bốn người con
rồi mất, anh em của anh ai cũng khổ nên anh cũng khó nhờ vả.
Cuộc sống khó khăn của anh Thảo đôi lúc khiến anh nghĩ
quẫn, nhưng rồi khi nghĩ lại cuộc chiến Gạc Ma, nghĩ đến lời hứa trước
khi anh Phương mất: “Cố gắng đến thăm mạ của Phương ở quê, gửi lại cho
mạ kỷ vật là cái nhẫn vàng để mạ chuyển đến vợ ở quê”, thế nên anh phải
cố gắng làm lụng vất vả để kiếm sống, để chờ. Về kỷ vật, anh đã trao lại
cho thủ trưởng hải quân cấp trên, và kỷ vật đã về đúng địa chỉ, chỉ còn
lời hứa “gặp mạ một lần”. Và anh đã làm được điều đó đúng 25 năm sau
ngày trở về từ trận chiến. Thảo nói, anh đang ước có một ngày được trở
lại Trường Sa, đến được đảo Sinh Tồn để thăm những người lính đang giữ
đảo, thắp nén hương cho những người đã ngã xuống...
bài và ảnh: Quốc Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét