Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Nghiên cứu 'Binh thư' của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (kỳ 10 và hết): Một câu trả lời cho ngàn câu hỏi!

"Vì ông là tướng Giáp". Bản thân, câu trả lời ngắn gọn ấy đã đủ là mẫu số chung để trở thành lời đáp cho hàng ngàn câu hỏi mà các học giả quốc tế đặt ra quanh 2 cuộc chiến tranh của VN. Lịch sử VN lựa chọn tướng Giáp, để rồi đến lượt ông lại tạo ra lịch sử, bằng cách đặt lên đó dấu ấn riêng của mình.


"Một trong 25 danh tướng huyền thoại của lịch sử thế giới", "Thiên tài quân sự", "Một vĩ nhân của thời đại"... Hàng loạt nhận xét và đánh giá từ báo chí phương Tây ấy đã được trích dẫn lại, khi tướng Giáp qua đời ở tuổi 103 vào ngày 4-10-2013 vừa rồi.

Nhưng, đặt bên cạnh những so sánh xuyên thời gian với Napoleon, Hanibal, Alechxandros Đại đế, Lawrence  hay Kutuzop, đâu là nét riêng ở một gương mặt đã trở thành huyền thoại ngay từ lúc còn sống như tướng Giáp?

Vị tướng đi lên từ “số không”

Câu trả lời rất đơn giản: vì tướng Giáp gắn với lịch sử VN và là một phần của lịch sử VN. Vì Clausewitz hay Lawrence – những người sáng tạo ra các học thuyết quân sự nổi tiếng - không phải mang trách nhiệm nặng nề của một vị Tổng chỉ huy như tướng Giáp. Vì Napoleon  và Alechxandros Đại đế không phải gánh trên vai sứ mệnh giải phóng cho cả một dân tộc. Vì Kutuzop, dù rất xuất sắc và được tướng Giáp yêu thích, cũng không phải thực hiện cuộc chiến tranh vệ quốc với những điều kiện chênh lệch khổng lồ như vị Đại tướng của VN.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp quan sát tại trận địa Điện Biên Phủ - trận chiến đưa tên tuổi ông vào lịch sử thế giới. Ảnh tư liệu TTXVN
Đại tướng Võ Nguyên Giáp quan sát tại trận địa Điện Biên Phủ - trận chiến đưa tên tuổi ông vào lịch sử thế giới. Ảnh tư liệu TTXVN
"Không phải vì phong cách xuất sắc và tính trang nhã trong chiến lược của tướng Giáp.  Không phải vì những trận đánh nổi tiếng, và cũng không phải vì bản lĩnh được ngợi ca như một người có thể tạo ra những phép màu" - học giả B. Currey nhận xét - "Điều tạo nên huyền thoại về tướng Giáp nằm ở việc ông là vị tướng duy nhất phát động cuộc chiến đấu từ một hoàn cảnh yếu kém trầm trọng về vật tư, tài chính, hậu cần và hoàn toàn không có quân đội. Vậy nhưng, con người ấy vẫn có thể  đưa một đất nước nghèo nàn, vượt qua những khó khăn khách quan của hoàn cảnh, cũng như những yếu kém chủ quan về quản lý bên trong, để đánh bại hai nền quân sự lớn nhất của thế giới".

Tướng Giáp, như lịch sử đã chứng minh, là người tự học và tự rút ra kinh nghiệm từ thực tế để hoàn thiện khả năng quân sự xuất sắc của mình.

Sự thực, khi phân tích về sự nghiệp cầm quân của ông, nhiều công trình nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra những điểm chưa hoàn thiện trong các chiến dịch chống Pháp năm 1951 tại vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Tuy nhiên, thực tế ấy cũng chỉ để các học giả này đưa ra một nhận định: từ một thầy giáo dạy sử không được đào tạo chính quy về quân sự, tướng Giáp đã có khả năng phi thường để học ngay từ những trải nghiệm của chính bản thân mình.

"Những thử thách phải vượt qua khiến ông trở thành một bậc thầy về chiến thuật và chiến lược. Ông sáng tạo một kiểu chiến tranh mà cả Pháp và Mỹ không thể đánh thắng"- Currey viết.

Nhưng, khác với sự lý tính của các học giả phương Tây, những nhà nghiên cứu vẫn có cách giải thích riêng của mình về thiên tài chiến thuật ở vị Đại tướng của mình.

"Phân tích kĩ, chúng ta sẽ thấy tất cả những thiên tài quân sự của VN như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Quang Trung... đều gắn liền lối đánh của mình với nghệ thuật chiến tranh toàn dân" -  Đại tá Lê Thế Mẫu (cựu chuyên gia Viện Chiến lược Quốc phòng), nói - "Thiên tài của Đại tướng là biết vận dụng tư tưởng quân sự ấy trong nghệ thuật cầm quân của mình, cộng cùng những nguyên tắc mà ông sớm học được từ chiến tranh hiện đại".

Và di sản về “binh thư” Võ Nguyên Giáp    

Năm 1975, khi kết thúc chiến tranh, tướng Giáp cũng đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu lịch sử chống ngoại xâm, đồng thời viết một số luận văn về lịch sử quân sự và những anh hùng dân tộc. Theo GS Phan Huy Lê (Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN), trong những năm tháng này, tướng Giáp luôn lưu ý giới nghiên cứu cần tìm hiểu chuyên sâu về những khái niệm đã được tổng kết trong lịch sử VN như "ngụ binh ư nông" thời Lý, "dân binh" và "dĩ đoạn chế trường" thời Trần, "lập cước chi địa" và "dĩ nhược chế cường, dĩ quá địch chúng" thời khởi nghĩa Lam Sơn. Những khái niệm ấy, theo một nghĩa nào đó, là sự đúc kết một số tư tưởng và đặc điểm nghệ thuật quân sự VN trong lịch sử.

Nhưng, bản thân, cách  cầm quân của tướng Giáp trong hàng chục năm cũng đã là một di sản độc đáo của nghệ thuật quân sự VN trong thời hiện đại. Như lời của nhà nghiên cứu Currey: "Tướng Giáp không bao giờ quan tâm tới các đáp án giả định từ trước như các sĩ quan được đào tạo bài bản. Ông tiếp cận vấn đề một cách linh hoạt. Và, mỗi vấn đề đòi hỏi tướng Giáp phải có những câu trả lời mới từ kinh nghiệm thực tế. Dần theo thời gian, những câu trả lời ấy được nâng thành nguyên tắc chỉ đạo độc đáo của riêng ông. Mà, theo một nghĩa nào đó, những thứ độc đáo được kiểm chứng theo thời gian thì sẽ trở thành học thuyết".

Theo Đại tá Lê Thế Mẫu, một số tác phẩm viết về chiến tranh của tướng Giáp đã được các trường quân sự của Mỹ đưa vào giáo trình giảng dạy của mình, như một đối chứng để tham khảo về cuộc chiến tranh mà họ từng sa lầy và không thể giành chiến thắng. Thậm chí, như lời một số nhà nghiên cứu khác, hiệu quả từ cách vận hành chiến tranh nhân dân của tướng Giáp đã gây ấn tượng với người Mỹ mạnh tới mức trong suốt thời gian chiến tranh VN diễn ra, họ có hẳn một đơn vị chuyên nghiên cứu các tư liệu liên quan hoặc bài viết của ông. Để rồi, dựa trên các phân tích, đánh giá, và nhận xét của Đại tướng, những chuyên gia Mỹ đã nghĩ tới việc xây dựng một phương pháp luận về tổ chức và tiến hành các cuộc nổi dậy hoặc chiến tranh du kích, để sau này có thể áp dụng cho các lực lượng đặc biệt Mỹ trong trường hợp tại nước ngoài.

Phải đúc rút thành “cẩm nang”

"Sự thực, do điều kiện khách quan, đến giờ chúng ta vẫn chưa có những công trình nghiên cứu thật đầy đủ và toàn diện về nghệ thuật quân sự của Đại tướng. Tôi nghĩ, đã đến lúc, các học giả nên tổng hợp, tìm hiểu kĩ những gì Đại tướng đã làm cũng như những đề xuất, lưu ý về hướng phát triển nghệ thuật quân sự VN trong tương lai, để đúc rút thành một cẩm nang có độ dày vừa phải và đưa vào sử dụng" - chia sẻ của TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử Quân sự VN) với TT&VH có thể coi là lời kết của loạt bài dài kỳ này.
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Nghiên cứu 'Binh thư' của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (kỳ 9): Kết thúc ván cờ theo cách 'có một không hai'

"Trong phiên họp lịch sử vào ngày 18/3/1975, tướng Giáp đã có quyết định chiến lược lớn cuối cùng trong sự nghiệp quân sự chói sáng của ông, khi ra lệnh tổ chức cuộc tấn công lớn trên toàn chiến trường miền Nam" - L. Pribbenow, cựu nhân viên CIA tại Đông Dương, nhận xét trong một bài viết có cái tên khá đặc biệt: Đợt tấn công chung cuộc của Bắc Việt: cách kết thúc ván có có một không hai (North Vietnam’s Final Offensive: strategic endgame nonparei).


Pribbenow ví von: "Giấy báo tử đến với chế độ VNCH vào ngày 30-4-1975. Nhưng, không nghi ngờ gì nữa, phát súng bắn gục họ đã được bắn ra bởi tướng Giáp từ ngày 18-3 trước đó". Còn, trong cuốn sách Chiến thắng bằng mọi giá, học giả B. Currey đưa ra một so sánh thú vị về cuộc Tổng tiến công Mùa xuân 1975: "Có nhà nghiên cứu gọi đó là sự "sao chép một chiến dịch theo kiểu Mỹ". Nhưng thực tế, không một đạo quân nào của Mỹ lại có thể dựa vào sự giúp đỡ của dân quân du kích và các cán bộ chính trị để tấn công theo cách ấy".
Quyết định độc đáo

Một số nhà nghiên cứu quốc tế cho rằng trong bối cảnh viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) giảm toàn diện sau năm 1973, bất kỳ một cuộc tấn công lớn nào từ miền Bắc cũng sẽ giành thắng lợi. Tuy nhiên, Pribbenow kịch liệt phản đối quan điểm này, đặc biệt là khi xét tới bối cảnh nguồn viện trợ quân sự cho miền Bắc cũng đang giảm mạnh ở thời điểm tương đương.

"Quân đội VNCH không phải là hổ giấy. Khi gặp phải những vấn đề nghiêm trọng về hậu cần và những lãnh đạo kém năng lực, họ vẫn là một đội quân giàu kinh nghiệm trận mạc và vẫn sở hữu một lượng thiết bị quân sự khổng lồ". Pribbenow viết. "Và, cứ cho rằng sự sụp đổ ấy là không thể tránh khỏi, thì kết cục có lẽ sẽ dai dẳng và đẫm máu hơn nhiều, nếu những người cộng sản chọn một kế hoạch tấn công khác." Theo tác giả này, điểm mấu chốt của chiến thắng 1975 nằm ở sự thành công của chiến dịch Tây Nguyên, "đòn tâm lý choáng váng và đầy bất ngờ mà tướng Giáp đã nện xuống Bộ tổng tham mưu của đối phương".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh đạo Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Ảnh tư liệu TTX
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh đạo Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Ảnh tư liệu TTX
"Nhiều tư liệu hiện có đều khẳng định: Đại tướng là một trong những người đầu tiên chọn Buôn Mê Thuột làm điểm khởi đầu cho chiến dịch này" - TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử Quân sự VN), cho biết. "Thậm chí, theo lời cố Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên 1975), ngay từ rất sớm, tướng Giáp đã có sự quan tâm đặc biệt tới Buôn Mê Thuột, điểm yếu nhất trong kế hoạch phòng thủ "nặng ở hai đầu" của VNCH". Trên thực tế, ý tưởng về Buôn Mê Thuột đã thuyết phục được những người chỉ huy chiến dịch, khi đặt cạnh những lựa chọn như Huế, Đông Nam Bộ, Đà Nẵng... cho chiến dịch mở màn.
Những gì diễn ra tại Tây Nguyên trong nửa đầu tháng 3/1975 đã được ghi lại trong hàng trăm công trình nghiên cứu của VN - khi quân đội của tướng Giáp lần lượt chiếm Buôn Mê Thuột và Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn. Nhưng, với cái nhìn từ phía bên kia, bản thân Pribbenow cũng không tiếc lời khen ngợi "tướng Giáp và các cấp phó của ông".

"Sau này, một vị Đại tướng của VNCH cũng thừa nhận với tôi: ông nhìn thấy ở quyết định đó sự phản ánh học thuyết "tiếp cận gián tiếp", luôn đánh vào chỗ đối phương không ngờ tới của Liddell Hart (Nhà tư tưởng quân sự hiện đại của Anh – TT&VH). Đòn đánh ấy không nhằm vào chủ lực của VNCH, nhưng lại bắt trúng điểm chiến lược yếu nhất mà họ không có quyền để mất" Pribbenow viết. "Việc chiếm Buôn Mê Thuột cho phép quân đội  VN lựa chọn bất kỳ nơi để làm mục tiêu tấn công tiếp theo – trong khi VNCH phải vắt óc phán đoán và tiếp tục phạm sai lầm".
Bộ binh và xe tăng tiến vào giải phóng Đà Nẵng. Ảnh tư liệu TTX
Bộ binh và xe tăng tiến vào giải phóng Đà Nẵng. Ảnh tư liệu TTX
Đánh tan 10 vạn quân trong 3 ngày

Trong hồi ký Tổng hành dinh  trongMùa xuân Đại thắng, tướng Giáp cũng ghi lại khá rõ cuộc tranh luận gay gắt với Trung tướng Lê Trọng Tấn – người luôn được ông tin cậy và đánh giá rất cao trong số những cộng sự của mình.
Theo đó, Đại tướng yêu cầu tướng Tấn, (tư lệnh chiến dịch Quảng Nam – Đà Nẵng), phải tổ chức giải phóng Đà Nẵng trong vòng 3 ngày – trong khi vị Trung tướng này kiên quyết ý kiến phải đánh trong 5 ngày vì "không chuẩn bị kịp". Đại tướng ghi rõ: "Tôi nói, giọng có phần gay gắt: Tư lệnh mặt trận là anh nên tôi để anh ra lệnh. Nếu là người khác, thì tôi ra lệnh: Đánh Đà Nẵng theo phương án chuẩn bị ba ngày. Nếu chuẩn bị năm ngày, địch rút mất cả thì sao?"

"Anh em truyền miệng rằng sau đó Đại tướng còn nói: nếu anh Tấn vẫn muốn đánh 5 ngày thì chỉ có cách thay Tư lệnh". TS Vũ Tang Bồng kể vui. "Thực ra, tướng Tấn cũng có lý. Ông là người dùng binh rất cẩn thận, điềm tĩnh, trong khi Đà Nẵng thời điểm đó là thành phố quân sự lớn thứ 2 sau Sài Gòn và có tới 10 vạn quân dồn về. Nhưng, điều Đại tướng nhìn thấy là sự rối loạn, mất hẳn ý chí chiến đấu của quân đội VNCH".

Cũng cần nói thêm, theo một số ý tưởng ban đầu, quân đội VN sau khi giải phóng Buôn Mê Thuột sẽ khẩn trương tiến dọc Tây Nguyên, tận dụng khí thế để tấn công Sài Gòn rồi sau đó mới "giải quyết" các tỉnh đồng bằng Duyên hải. Nhưng, theo TS Bồng, quyết định mở mặt trận thứ 2 theo trục Huế - Đà Nẵng của tướng Giáp là một thay đổi cực kì quan trọng.

"Tại Huế và Đà Nẵng khi đó có những lực lượng rất lớn của VNCH, trong đó có cả những binh chủng đặc biệt như Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến. Nếu bỏ lỡ thời cơ, để họ kịp chuyển quân, co cụm về giữ Sài Gòn thì chiến dịch của chúng ta sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều". TS Bồng nói. Thực tế, hoàn toàn trùng khớp với nhận định của tướng Giáp, khi chiến dịch giải phóng Đà Nẵng thành công chỉ sau 3 ngày.
Theo hồi ký Tổng hành dinh  trong Mùa xuân Đại thắng, khi tướng Tấn hoàn thành chiến dịch, Đại tướng nói vui: "Lẽ ra mình cho cậu 5 điểm (thang điểm Liên Xô), nhưng vì chuyện "3 ngày" nên chỉ cho 3 điểm thôi". Còn Pribbenow đánh giá: "Chiến dịch của VN dựa vào các kỹ năng đánh lừa, nghi binh gây bất ngờ, tiếp cận gián tiếp, đánh lần lượt từng cụm căn cứ - nói tóm lại, một chiến dịch rất trí tuệ. VN cuối cùng đã vươn tới một chiến dịch xứng tầm với một lực lượng quân đội chuyên nghiệp, hiện đại, thứ mà các nhà lãnh đạo cộng sản của họ đã nỗ lực rất lâu để xây dựng."
(Còn tiếp)
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Nghiên cứu 'Binh thư' của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (kỳ 8): 'Đường 9 - Nam Lào' - Đỉnh cao nghệ thuật nghi binh

“Sau trận Điện Biên Phủ, nếu phải chọn một chiến thắng thể hiện rõ nhất tài năng và tầm nhìn của tướng Giáp, tôi sẽ chọn chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971” - TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử quân sự VN) nhận xét.


Lam Sơn 719 (cách gọi của liên quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa (VNCH) được coi là cuộc thử nghiệm đầu tiên về khả năng tác chiến của quân đội VNCH, khi người Mỹ bắt đầu từng bước rút khỏi chiến trường Đông Dương. Bởi vậy, bên cạnh 10.000 quân và 1.200 máy bay của người Mỹ, tổng số lượng quân nhân VNCH được huy động cho chiến dịch này lên tới 31.000 người.

Theo kế hoạch chi tiết được MACV (Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại VN) lập ra, sau những hoạt động nghi binh của người Mỹ, các lực lượng VNCH sẽ tiến dọc theo đường quốc lộ 9 sang thung lũng Sepon (Lào), tấn công vào các căn cứ quân sự VN tại đây và cắt đứt hẳn tuyến đường mòn Hồ Chí Minh - nơi vận chuyển 90% hàng quân sự vào Nam. Một cuộc hành quân như vậy sẽ gây ra sự thiếu thốn đạn dược vũ khí cho Giải phóng quân VN trong vòng 18- 24 tháng trong thời điểm nhạy cảm, khi người Mỹ đang dần rút quân khỏi miền Nam.
Tướng Giáp và tướng Đồng Sỹ Nguyên bên một giò phong lan của bộ đội Trường Sơn sau chiến dịch Đường 9. Ảnh Mạnh Thường
Tướng Giáp và tướng Đồng Sỹ Nguyên bên một giò phong lan của bộ đội Trường Sơn sau chiến dịch Đường 9. Ảnh Mạnh Thường
Nghệ thuật nghi binh

"Từ trước đó ít nhất 4 năm, Đại tướng đã nghĩ tới việc người Mỹ sẽ bắt buộc phải tổ chức một cuộc hành quân như vậy" - TS Bồng nói - " Nhiều tư liệu đã ghi lại các chỉ thị của tướng Giáp trong vai trò Bộ trưởng Bộ quốc phòng  về việc lưu ý và từng bước chuẩn bị cho khả năng này".

Đặc biệt, sau cuộc đảo chính của Lon Nol tại Campuchia vào tháng 3/1970, tướng Giáp đã gần như phán đoán chuẩn xác về địa bàn tấn công của liên quân Mỹ - VNCH trong thời gian tới.Theo TS Bồng, việc đảo chính, lật đổ chính phủ trung lập Sihanouk của Lon Nol cũng đồng nghĩa với việc cắt đứt tuyến vận tải đường biển của VN vào miền Nam qua vịnh Sihanoukville trước đây. Khi ấy, đường mòn Hồ Chí Minh trở thành tuyến vận chuyển chính yếu, được vận hành tối đa, và người Mỹ buộc lòng phải nỗ lực cắt đứt huyết mạch này.

"Ở chiến dịch này, Đại tướng đã cho tổ chức hàng loạt hoạt động nghi binh công phu và đạt tới nghệ thuật tầm cao. Nhiều lực lượng khác nhau được huy động tham gia, trong đó có cả những cánh quân đã được yêu cầu đóng quân và luyện tập tại Quảng Bình từ trước đó cả năm" - TS Bồng nhận xét - "Trong khi đó, phía quân đội Mỹ và VNCH vẫn hoàn toàn tin rằng từ sau Mậu Thân, các lực lượng quân sự VN đóng dọc theo Đường 9 đã mỏng đi rất nhiều".

Một ví dụ điển hình cho việc giữ bí mật tại chiến dịch Đường 9 là trường hợp sư đoàn 2 của Tướng Nguyễn Chơn, khi đó đang hoạt động tại mặt trận Nam Trung Bộ. Theo hồi ký, từ giữa năm 1970, sư đoàn 2 đã nhận được một mệnh lệnh “khó hiểu": Tiến gấp ra phía bắc Đường 9 để nhận nhiệm vụ mới. "Sư đoàn 2 là lực lượng chủ yếu của Liên khu V, không hiểu sao lại được "kéo" đi bất ngờ như vậy” - Tướng Nguyễn Chơn kể - "Sợ rằng cơ yếu dịch nhầm, chúng tôi "liều" điện thoại lên hỏi cấp trên thì nhận được câu trả lời: Nghiêm chỉnh chấp hành, không hỏi lại".
Một số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong chiến dịch Đường 9. Ảnh tư liệu TTXVN
Một số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong chiến dịch Đường 9. Ảnh tư liệu TTXVN
Chiến dịch "săn máy bay" độc đáo

TS Bồng kể một câu chuyện mà ông được nghe từ các chỉ huy quân sự từng tham gia chiến dịch này. Biết tin đối phương mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, Đại tướng nhận xét ngay: "Chọn thời điểm tấn công như vậy là dốt nặng. Họ không hiểu gì về địa hình và thời tiết cả. Tháng 2 âm, phía Tây Trường Sơn rất nhiều sương mù và bắt buộc trực thăng khi đổ quân phải rà rất thấp. Trận này ta nhất định thắng to".

Theo TS Bồng, trong giai đoạn sắp diễn ra chiến dịch, một lượng lớn súng đại liên 12,7 ly đang được cất giữ dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để chờ cơ hội vận chuyển vào Nam. Đây là loại súng có thể sử dụng cơ động và khá hữu dụng trong phòng không và tác chiến bộ binh. "Dự kiến, số súng này sẽ được chi viện với số lượng lớn cho chiến trường miền Nam để gây bất ngờ trong tác chiến. Nhưng, khi đó, Đại tướng đã rất quyết đoán và yêu cầu mang toàn bộ lượng súng 12,7 ly này ra sử dụng cho chiến dịch Đường 9, và phát rất rộng rãi tới mọi bộ phận chiến đấu".

Hồi ký của Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên ghi rõ: Khi tác chiến, Bộ Tư lệnh Trường Sơn yêu cầu các đơn vị nhử địch vào thật sâu để chủ động tiến công vào các đội hình trực thăng. Khẩu hiệu được đưa ra: "Cứ cho nó đến, quyết không cho về". Trong ba ngày đầu, trực thăng bay đầy trời tại khu vực Sê Pôn, Bản Đông để đổ quân, Bộ Tư lệnh vẫn kiên quyết không cho các loại pháo phòng không khai hỏa mà chỉ dùng súng máy để khiến đối phương chủ quan.

"Ngày thứ tư, thấy mẻ vó nặng tay, chúng tôi mới cho nổ súng. Tại Bộ chỉ huy, anh em ngồi nghe bên loa điện thoại rồi không ngừng reo hò khi từng chiếc trực thăng rơi" - Tướng Đồng Sỹ Nguyên kể trong hồi ký - "Cảnh tượng không khác gì các bạn trẻ bây giờ xem bóng đá rồi liên tục ồ lên sau mỗi quả sút vào".

21 giờ ngày 10-2-1971, đài BBC đưa bản tin: Quân đội VNCH tiến quân lên đường mòn Hồ Chí Minh đã vấp phải lưới lứa phòng không dày đặc chưa từng thấy của Bắc Việt, 50 chiếc máy bay lên thẳng bị bắn hạ.

Nhưng, đó chỉ là ngày đầu tiên! Theo TS Bồng, đây là chiến dịch mà phía VN hạ được nhiều máy bay các loại của người Mỹ nhất, với con số rất đẹp: 555 chiếc.
Mỹ “sợ” thống kê số trực thăng bị bắn hạ

Trong cuốn sách Chiến thắng bằng mọi giá, học giả Mỹ B. Currey đã dẫn lời Frank Margiotta (phi đội trưởng không lực Mỹ, làm việc tại Tổng hành dinh đặt tại Sài Gòn) Theo đó, trước lượng trực thăng bị bắn rơi quá nhiều, các sĩ quan Mỹ tại đây đã tìm đủ cách để trì hoãn, không báo lại thống kê chuẩn lên các chỉ huy cấp cao nhất. Họ sợ, số liệu thực sẽ gây tác động xấu tới việc thực thi nhiệm vụ của các phi công sau này.
 
(Còn nữa)
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Nghiên cứu 'Binh thư' của Đại tướng (kỳ 7): 'Khắc tinh' của chiến lược 'Tìm và diệt'

"Người Mỹ không thể thắng được ở Việt Nam chỉ vì một lý do đơn giản: tướng Giáp không bao giờ cho phép họ làm điều đó"-  John Keegn, sử gia quân sự người Anh, nhận định ngắn gọn về vai trò của Đại tướng trong chiến tranh chống Mỹ.


Không còn trực tiếp chỉ huy tác chiến như thời chống Pháp, tướng Giáp trong thời kì này đã trở thành một vị tướng chiến lược, với những quyết sách ở tầm vĩ mô để thay đổi cục diện của cuộc chiến tranh chống Mỹ.

Và, từ thực tế rất độc đáo của cuộc chiến tranh phối hợp giữa 2 miền Nam - Bắc, học giả B.Currey nhận xét: nếu chiếu theo cách vận hành của quân đội Mỹ, có thể coi tầm ảnh hưởng của tướng Giáp tương đương với vai trò của Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng và Tổng tham mưu trưởng liên quân cộng lại.

"Bắt bài" chiến thuật "Tìm và diệt"

Theo lời đạo diễn Nhật Bản Matsumoto Takeaki, tướng Giáp đã kể lại một câu chuyện thú vị với ông vào năm 2004: "Lúc chuẩn bị đánh Mỹ, những người bạn lớn của Việt Nam đều khuyên: không thể được, các anh bỏ ý định ấy đi”. Và tướng Giáp trả lời: “Nếu đánh Mỹ theo cách của các anh, chúng tôi không đủ sức để chịu được một tiếng đồng hồ. Nhưng theo cách đánh của VN, chiến thắng là điều có thể".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một cuộc gặp gỡ với các anh hùng, dũng sĩ miền Nam năm 1971.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một cuộc gặp gỡ với các anh hùng, dũng sĩ miền Nam năm 1971.
Giai đoạn mà tướng Giáp nhắc tới được đánh dấu bằng sự xuất hiện trực tiếp của quân đội Mỹ tại miền Nam từ 3-1965. Với chiến lược "Tìm và diệt", đại tướng Westmoreland, tổng tư lệnh các lực lượng Đồng minh tại VN khi đó, là đối thủ của tướng Giáp. Theo phân tích của B. Currey, ngay từ khi nhập cuộc, Westmoreland đã mắc một sai lầm căn bản, khi nhìn cách đánh của quân đội VN chỉ dưới góc độ một cuộc chiến tranh du kích đơn thuần.
Chiến lược quân sự Tìm và diệt (Seek and destroy) của Westmoreland được xây dựng như một cách tác chiến đặc biệt để khắc chế chiến tranh du kích. Vắn tắt, dựa trên ưu thế tuyệt đối về hỏa lực và khả năng cơ động bằng trực thăng hoặc chiến xa, các lực lượng quân sự Mỹ sẽ thâm nhập trực tiếp vào những vùng căn cứ của đối phương để tác chiến nhanh, tiêu diệt lực lượng đối kháng và rút lui – thay vì "sa lầy" trong việc giữ các khu vực cần chiếm đóng như người Pháp. Ngoài ra, việc sử dụng lực lượng phục kích dài ngày trong rừng rậm và phong tỏa, cắt đứt các đường vận chuyển Bắc Nam cũng được coi là những biện pháp hỗ trợ cần thiết.

"Người Mỹ, với sự bài bản và tính toán của họ, không bao giờ hiểu được sự biến hóa, kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy của tướng Giáp" - TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử Quân sự VN) nhận xét. Còn theo cựu phóng viên quân đội B.T, ngay từ khi nghe tới tên gọi chiến thuật Tìm và diệt của Westmoreland, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phân tích và đưa ra một ý kiến cực kì xuất sắc trong một buổi nói chuyện với các cán bộ của Học viện quân sự cấp cao Việt Nam.

"Khái niệm Tìm nói lên điều gì? Nói lên thế bị động của người Mỹ, khi chúng ta cơ động cao, ẩn hiện
Đại tướng Mỹ Westmoreland, tác giả của chiến lược Tìm và diệt.
Đại tướng Mỹ Westmoreland, tác giả của chiến lược Tìm và diệt.
bất ngờ, nghi binh tốt, không cố định ở một chỗ, biết tận dụng địa hình rừng núi và dựa vào dân để giữ bí mật nơi trú quân và hành quân, để đối thủ phải lúng túng mày mò" - Tướng Giáp phân tích - "Còn Diệt nói lên điều gì? Đó là sự chủ quan, mù quáng, kiêu ngạo của người Mỹ, ỷ vào hỏa lực và sự cơ động để tìm thấy chúng ta là dễ dàng ập đến tấn công. Tâm lý "say mồi" ấy sẽ giúp chúng ta giăng bẫy để đưa họ vào cách đánh của mình".
"Cẩm nang" Ia Đrăng
Thực tế, những chiến thắng đầu tiên của quân đội VN trong cuộc đối đầu với Mỹ đều diễn ra theo đúng kịch bản mà tướng Giáp dự liệu.

Giữa tháng 11-1965, khi trận Ia Đrăng diễn ra tại một thung lũng gần Pleiku, "cẩm nang chống Mỹ" coi như đã được đúc kết trên thực tế.

Trong 4 ngày từ 14 đến 17-11, những vận động liên tục từ phía VN đã khiến 3 tiểu đoàn của người Mỹ không thể phát huy được ưu thế về hỏa lực và không vận của mình. Giữa thế trận giằng co loanh quanh ấy, chiều tối 17-11, tiểu đoàn Không kỵ 2/7 của người Mỹ phạm một sai lầm chết người, khi rơi vào vị trí phục kích mà một tiểu đoàn VN chuẩn bị sẵn. Lối đánh "trộn trấu" này - theo cách gọi của các chiến sĩ VN - khiến tiểu đoàn này gần như bị xóa sổ hoàn toàn chỉ sau vài giờ đồng hồ.
"Anh em chiến sĩ rất sôi nổi khi các chỉ huy hỏi về kinh nghiệm lần đầu đánh Mỹ" - Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp thuật lại trong hồi ký. "Có cậu hào hứng bảo: Mỹ chỉ có bom và pháo là đáng sợ, chứ cồng kềnh và xoay xở chậm hơn ta nhiều. Nếu các thủ trưởng có cách kiềm chế hỏa lực, mình em chấp hẳn 3 thằng".
Bộ binh Mỹ đổ bộ từ trực thăng trong trận Ia Đrăng năm 1965.
Bộ binh Mỹ đổ bộ từ trực thăng trong trận Ia Đrăng năm 1965.
Các tài liệu đều ghi rất rõ: ngay sau khi diễn ra, chiến lệ và báo cáo từ trận Ia Đrăng đã được đưa về Bộ Tổng tham mưu của tướng Giáp để làm tổng kết và rút kinh nghiệm. Chỉ một thời gian rất ngắn, tổng kế này được viết thành các dạng văn kiện kèm bản đồ, in trên báo Quân đội nhân dân, tạp chí Quân đội nhân dân, thậm chí đọc chậm trên Đài truyền thanh Hà Nội và Đài Giải phóng để các đơn vị ở xa ghi lại. Theo đó, các bí quyết chiến thắng được đưa ra là chuẩn bị kỹ, hiểu rõ địa hình, phán đoán chính xác hành động của đối phương để dụ tới đúng "bẫy" phục kích, đánh nhanh, rút nhanh, luôn tận dụng các chiến thuật "đánh điểm, diệt viện", "vây điểm, diệt viện", biết khơi ngòi chiến dịch và kết thúc chiến dịch...

Rời VN để trở về Mỹ sau năm 1968, Westmoreland vào cuối đời đã dành cho tướng Giáp những lời đánh giá khách quan: "Những phẩm chất làm nên một nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại là khả năng đưa ra quyết định, sức mạnh tinh thần, khả năng tập trung và một trí tuệ hội tụ được những phẩm chất này. Tướng Giáp đã sở hữu tất cả".
Cải tiến chiến lược quân sự Việt Nam

Dưới con mắt tướng Giáp, việc người Mỹ sử dụng một lực lượng quá đông và mạnh để tác chiến cũng là một cách để hủy hoại mình. Bởi, ông sớm nhận ra những hoạt động tác chiến quan trọng của họ đều quá bài bản và không có độ mềm dẻo. Tầm nhìn bao quát của ông đã sớm hướng các đợt tấn công vào những điểm yếu nhất trong hệ thống bố trí quân sự của Mỹ: những căn cứ không quân và trung tâm hậu cần. Chính vì sự sắc sảo đó, tướng Giáp đã có sự cải tiến quan trọng trong chiến lược quân sự của Việt Nam (Tướng Giáp qua 2 cuộc chiến tranh Đông Dương - Peter Macdonald)
(Còn nữa)
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Nghiên cứu 'Binh thư' của Đại tướng (kỳ 6): Từ 'đánh chắc' tới 'vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt'

Với những gì diễn ra tại Điện Biên Phủ, phương châm "đánh chắc, tiến chắc" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được tổng kết thành nghệ thuật đánh công kiên của VN suốt hàng chục năm sau bằng 6 chữ "vây, lấn, tấn, phá, triệt,  diệt". Nhưng, như lời Đại tướng, việc lựa chọn phương châm ấy chính là quyết định khó khăn nhất trong sự nghiệp cầm quân của ông.


"Khẩu quyết 6 chữ" trên có thể được diễn giải bằng các bước triển khai nối tiếp trên thực tế: Vây chặt, Lấn sâu, Tấn công không ngừng, Phá hủy công sự địch, Triệt viện binh và tiếp tế, Tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm hoặc cụm cứ điểm. "Tác giả" của nó được cho là Lê Trọng Tấn, lúc đó là Đại tá, tư lệnh của 1 trong 4 đại đoàn tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.

Nhưng, trước khi có được sự tổng kết độc đáo ấy, hàng loạt chỉ huy cao cấp đến sát giờ mở màn vẫn tuyệt đối muốn chọn phương án "đánh nhanh, thắng nhanh" cho chiến dịch.
Pháo binh của ta oanh kích tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ảnh Tư liệu
Pháo binh của ta oanh kích tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ảnh Tư liệu
Thượng phương bảo kiếm từ Hồ Chủ tịch
Sử liệu ghi rõ: cho tới trước sáng 26-1-1954 Đảng ủy mặt trận đã có 2 lần họp và đều chốt phương án tấn công "đánh nhanh, thắng nhanh". Các chỉ huy mặt trận và những cố vấn quân sự Trung Quốc đều chung quan điểm này.

"Không chỉ là nơi ủng hộ và giúp đỡ chúng ta về hỏa khí, việc Chí nguyện quân Trung Quốc từng giáp chiến và đẩy lùi quân Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên trước đó 4 năm cũng là một điều khiến chúng ta dễ rơi vào tâm lý "ngợp". Theo phương án đánh nhanh bằng chiến thuật “Oa tâm tạng” (đánh xuyên tim), chiến dịch sẽ diễn ra trong 3 ngày đêm, mở đầu bằng đợt pháo kích 2.000 phát đạn xuống lòng chảo Điện Biên.

“Việc chọn chiến thuật Oa tâm tạng như vậy cũng là đánh theo cách mà người Pháp đã tính toán. Chẳng hạn, về pháo binh, các trận địa pháo sẽ phải bố trí ngoài bãi trống để có thể tập trung bắn  tổng lực 2.000 phát đạn. Điều đó cũng đồng nghĩa với khả năng Pháp có thể phản pháo, hoặc sử dụng không quân để dập tắt những trận địa pháo này" - TS Vũ Tang Bồng  (Viện Lịch sử Quân sự VN) nói - "Ngoài ra, các mũi tấn công cũng sẽ phải băng qua khoảng đất trống 200m, cộng cùng hàng trăm mét bãi mìn và dây thép gai, chứ không thể từng bước đào hào vây lấn như thực tế sau này".

Trong hồi ký Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ghi lại rất rõ buổi họp Đảng ủy bất thường do ông triệu tập vào sáng 26/1 tại hang Thẩm Púa. Những vị chỉ huy như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Hoàng Văn Thái... đều im lặng hoặc băn khoăn trước đề xuất "đánh chắc, tiến chắc" được đưa ra. Tới thời điểm căng thẳng nhất, Đại tướng dẫn lại lời Hồ Chủ Tịch trước khi bắt đầu chiến dịch: Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh. Câu hỏi được ông đặt ra: nếu đánh, có chắc thắng trăm phần trăm không?

"Có thể coi lời dặn đó là Thượng phương bảo kiếm mà Bác tặng cho Đại tướng trong chiến dịch. Không có câu ấy, tôi cũng không hình dung nổi buổi họp sẽ diễn biến thế nào" - TS Bồng nói vui. Thực tế, câu trả lời của các chỉ huy được ghi lại trong hồi ký Điện Biên: Anh Văn nêu câu hỏi thật khó trả lời. Ai dám bảo là sẽ chắc thắng trăm phần trăm.

Quyết định chọn phương án "đánh chắc tiến chắc" được Đại tướng đưa ra sau một đêm mất ngủ và phải đắp lá ngải cứu trên trán vì quá đau đầu, như ông viết trong Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử.
Bộ đội VN vừa chiến đấu, vừa đào hào vây lấn tại Điện Biên Phủ. Ảnh Tư liệu TTXVN
Bộ đội VN vừa chiến đấu, vừa đào hào vây lấn tại Điện Biên Phủ. Ảnh Tư liệu TTXVN
Nghệ thuật giấu pháo và đào hào

Ra lệnh kéo pháo ra để đảm bảo bí mật, rồi lại đưa pháo trở vào lần nữa, kỳ tích của những chiến sĩ VN đã được ghi lại trong hàng loạt công trình nghiên cứu về Điện Biên Phủ. Và theo nhiều học giả phương Tây, cũng khó có thể cho rằng quân đội Pháp khi đó đã mắc lỗi chủ quan. Bởi, gần như không ai đủ sức nghĩ ra việc đạo quân của tướng Giáp có thể vận chuyển những khẩu pháo nặng gần 3 tấn suốt quãng đường 500km chủ yếu bằng sức người.

Nhưng, vượt hơn điều ấy, việc bố trí lại trận địa pháo của tướng Giáp đã mang lại cho chiến dịch một lợi thế khác hẳn. "Phương án đánh chậm, khiến chúng ta có thể tập trung bắn phá từng cứ điểm riêng lẻ trong nhiều ngày. Và tần suất bắn vừa phải là yếu tố quyết định cho phép hệ thống pháo VN có thể "giấu" sau khi bắn xong – thay vì đưa ra các bãi trống bắn tập trung như phương án ban đầu".

Thực chất, việc "giấu pháo” tại Điện Biên Phủ đơn giản tới không ngờ: các hầm dạng hàm ếch khoét sâu trong núi được đào sau từng trận địa pháo. Dứt đợt bắn, pháo lập tức được kéo lùi lại để "ẩn" trong những hầm kín này nhằm tránh phản pháo hoặc không kích từ máy bay. "Tôi gần như chưa gặp cách bố trí pháo độc đáo như vậy trong bất kỳ trận đánh nào của chiến tranh hiện đại. Đại tướng đã rất thông minh tận dụng địa hình lòng chảo Điện Biên để phát huy ưu thế này" - TS Vũ Tang Bồng nói.

Thậm chí, theo TS Bồng, việc sử dụng chiến thuật đào hào vây lấn của tướng Giáp cũng có thể coi là một sáng tạo độc đáo – cho dù nhiều chuyên gia nước ngoài coi đó là sự lặp lại của chiến thuật được Trung Quốc sử dụng năm 1951 tại trận Thượng Cam Lĩnh trong chiến tranh Triều Tiên. Tại trận đánh này, để giữ vững Thượng Cam Lĩnh, liên quân Trung Quốc - Bắc Triều Tiên đã đào những đường hào rất lớn cho phép dùng xe cơ giới chuyển quân lên các cứ điểm phòng ngự.

"Cách đào hào ở Thượng Cam Lĩnh áp dụng cho thế trận phòng ngự. Còn, tướng Giáp sử dụng chiến thuật đào hào để linh hoạt vây lấn, vượt qua các bãi đất trống, tiếp cận các mục tiêu tấn công sao cho an toàn nhất" - TS Bồng nói.
Chuyện về khẩu quyết “6 chữ vàng”

Vài chục năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, theo ghi chép của cựu nhà báo quân đội B.T, Tướng Giáp (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) và Tướng Tấn (Đại tướng Lê Trọng Tấn) đã có buổi trò chuyện thân mật với báo giới về buổi họp tại hang Thẩm Púa.
Theo lời kể vui của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chính người đúc kết khẩu quyết "vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt" là vị chỉ huy phản ứng mạnh nhất với quyết định chuyển đổi phương án tấn công của ông tại hang Thẩm Púa ngày 26-1-1954. Tướng Tấn cười, thừa nhận câu chuyện trên và cho biết: khi ấy, ông quá lo lắng về việc chiến dịch sẽ kéo dài và phải chuẩn bị lại trận địa pháo.
(Còn nữa)
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Nghiên cứu "Binh thư" Đại tướng (kỳ 5): "Triệt lương" và "vận lương"

Rất khó thống kê đủ hàng loạt giả thiết được giới nghiên cứu đặt ra suốt hơn 50 năm, kể từ khi chiến dịch Điện Biên Phủ hạ màn. Trong đó, một câu hỏi lớn nhất vẫn luôn được lặp lại, dưới mọi hình thức khác nhau: Đâu là nguyên nhân chính khiến người Pháp rơi vào thảm bại này?

Ít người biết, ngay từ 1950, người Pháp đã nghĩ tới chuyện rút khỏi Hà Nội. Theo nhà nghiên cứu B. Currey (Mỹ), tướng Carpentier thậm chí đã trực tiếp đưa ra mệnh lệnh này, sau những tin đồn rộ lên về việc tướng Giáp hứa đưa quân vào Hà Nội ăn tết Tân Mão 1951. Giữa tháng 12/1950, tướng De Latrre thay thế Carpentier với nhiệm vụ phải giữ được Đông Dương. Tuy nhiên, khá nhiều công chức người Pháp lo sợ và đã đưa gia đình rời Hà Nội, vào Sài Gòn sinh sống.
Bài toán "không tưởng"
Sự khủng hoảng của người Pháp, cùng thắng lợi liên tiếp trong 2 chiến dịch lớn sau đó tại Hòa Bình (1951) và Tây Bắc (1952) khiến tinh thần của những chiến sĩ VN lên cao hơn bao giờ hết. So với năm 1946, khối quân chủ lực VN đã có nhiều đại đoàn lớn, có quân số đầy đủ và những hỗ trợ quan trọng về vũ khí từ các nước anh em. Đặc biệt, một sự kiện quan trọng diễn ra vào cuối năm 1953, khi trung đoàn pháo binh 105 ly đầu tiên được thành lập với 24 khẩu. Đây là lần đầu tiên, chúng ta sở hữu hỏa lực mạnh như vậy.  
Đại tướng Võ Nguyên Giáp duyệt các đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ tại Lễ mừng chiến thắng ngay tại mặt trận. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Đại tướng Võ Nguyên Giáp duyệt các đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ tại Lễ mừng chiến thắng ngay tại mặt trận. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Bởi vậy, khá dễ hiểu khi tâm lý nôn nóng, muốn đánh lớn để kết thúc giai đoạn Tổng phản công (bắt đầu từ 1951) bắt đầu phát triển ở  nhiều người. Đặc biệt, trong trường hợp Điện Biên Phủ, tâm lý ấy lại càng được củng cố bởi 2  lý do: Cụm cứ điểm này mới chỉ được xây dựng vào cuối năm 1953, và việc tiếp vận cho chiến dịch gần như không thể kéo ra nhiều ngày. Nhiều học giả đã nhắc tới tính toán của Bộ chỉ huy chiến dịch khi đó: Để vận chuyển được 1 kg gạo từ Thanh Hóa hoặc Yên Bái lên Điện Biên khi đó, phía vận chuyển phải mang theo 24 kg gạo để ăn dọc đường.
"Các tài liệu ghi lại cho thấy: Hầu hết các gương mặt tham gia chỉ huy chiến dịch đều nhất nhất muốn chọn phương châm đánh nhanh, thắng nhanh trong 2 ngày 3 đêm" - TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử Quân sự VN) cho biết - "Người duy nhất băn khoăn và có phần phản đối quyết định này là Phạm Kiệt, Phó Cục trưởng Cục bảo vệ, sau này trở thành một vị trung tướng của VN".

Theo TS Vũ Tang Bồng, điểm thú vị nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ nằm ở việc: Trước khi bắt đầu, cả phía Pháp và VN đều gần như không có khái niệm sẽ sử dụng đường bộ để vận chuyển lương thực trong trường hợp giao tranh kéo dài. Không chỉ người Pháp, mà hàng loạt chuyên gia quân sự Mỹ cũng giữ quan điểm này khi tới thị sát Điện Biên Phủ.

Người nghĩ khác họ và muốn tiến hành một cuộc vây hãm dài ngày tất nhiên là tướng Giáp, như phong cách chung của ông: Dùng sở trường đánh sở đoản,và không bao giờ tiến hành một chiến dịch theo cách mà đối thủ đã hình dung.

Bài toán hậu cần

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thuật lại suy nghĩ của mình trong Hồi ký Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử. Như lời ông, khó khăn lớn nhất từ phía VN là việc chưa hề có kinh nghiệm phối hợp với pháo lớn để đánh công kiên.

Ngược lại, dù chuẩn bị rất kĩ, căn cứ của người Pháp vẫn cô lập với hậu phương và chỉ có thể tiếp vận bằng đường hàng không. Ngoài ra, dù là một tập đoàn cứ điểm lớn có kết cấu chặt, bản thân 49 căn cứ tại Điện Biên Phủ vẫn có khoảng cách với nhau. Nếu có phương án chặn tiếp viện hợp lý, phía tấn công hoàn toàn có thể tập trung tối đa sức mạnh để chọn diệt từng cứ điểm theo thời gian thích hợp.
Giải bài toán không tưởng về vận tải lương thực bằng nguồn tiếp tế tại chỗ và sự đóng góp của hàng vạn dân công, tướng Giáp đã làm phá sản toàn bộ sự chuẩn bị của người Pháp tại Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu TTXVN
Giải bài toán không tưởng về vận tải lương thực bằng nguồn tiếp tế tại chỗ và sự đóng góp của hàng vạn dân công, tướng Giáp đã làm phá sản toàn bộ sự chuẩn bị của người Pháp tại Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu TTXVN
Sớm dùng pháo binh phá vỡ và khóa chặt sân bay Mường Thanh, đồng thời cho tổ chức liên tục những đợt tập kích để quấy phá Gia Lâm và Cát Bi - 2 sân bay gần với Điện Biên Phủ nhất - là cách "triệt lương" của tướng Giáp đã được lịch sử ghi lại. Tuy nhiên, theo Thiếu tướng Lê Mã Lương, nhiều nhà nghiên cứu đã "bỏ quên" một quyết định cực kì sáng suốt khác của Đại tướng: Đưa một số lãnh đạo dân sự của tỉnh kháng chiến Lai Châu tham gia vào thành phần chỉ huy chiến dịch.

"Đại tướng đã rất xuất sắc khi chọn được những gương mặt như Đặng Kim Giang, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Thanh Bình... vào thành phần lo tổ chức hậu cần khi đó" - Thiếu tướng Lê Mã Lương nói - "Nhưng, chắc chắn, việc huy động thêm những cán bộ của Lai Châu đã đem lại cho chúng ta một lợi thế cực kỳ lớn để tìm kiếm lương thực cho cuộc vây hãm dài ngày".

Một thông tin đặc biệt được TS Vũ Tang Bồng cung cấp: Tại chiến dịch Điện Biên Phủ, nguồn lương thực được tiếp tế tại chỗ theo thống kê là 7.000 tấn, chiếm gần 50 % số lương thực sử dụng. "Xin nói thêm là tại Việt Bắc giai đoạn ấy, có những vùng 40km2 không hề có một bóng người. Và mãi tới những năm 1960, dân số tại vùng Việt Bắc cũng chỉ là 1 người/km2. Với cách gieo trồng lúa nương có năng suất không cao của đồng bào thiểu số, chúng ta có thể hình dung nhân dân Việt Bắc đã nhiệt tình và ủng hộ chiến dịch tới mức nào".

Giải được bài toán không tưởng về hậu cần ấy và một lần nữa bắt người Pháp phải vận hành theo lối đánh của mình, Đại tướng đã đưa ra câu trả lời cho hàng ngàn câu hỏi về nguyên nhân của chiến thắng Điện Biên Phủ!
Không phí phạm nguồn lực

“Có những quan điểm mà tướng Giáp cũng nhất trí với nguyên tắc quân sự của Trung Quốc. Nhưng, Võ Nguyên Giáp bác bỏ không chút vướng víu mọi điều vô nghĩa. Ông thấy rằng chiến thuật đưa ồ ạt bộ binh vào cuộc tiến công - một trong những chiến thuật được Mao Trạch Đông ưa thích - là một sự phí phạm nguồn lực.
Bởi, tướng Giáp hiểu rõ cuộc chiến phải dựa trên điều kiện cụ thể của chiến trường, hơn là đơn giản chỉ gắn bó một cách ngờ nghệch vào một học thuyết” (B. Currey, Chiến thắng bằng mọi giá)
(Còn nữa)
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Nghiên cứu 'Binh thư' của Đại tướng (kỳ 4): 3 'nguyên tắc vàng' để đánh bại 9 tướng Pháp

Suốt 9 năm kể từ 1945, Chính phủ và quân đội Pháp không chịu hiểu rằng quyền lợi của họ tại Việt Nam đã tới lúc cáo chung. Lần lượt, hàng loạt tướng quân sự cao cấp được phái sang đây để ngăn cản làn sóng cách mạng đang dâng cao dưới sự chỉ huy quân đội của tướng Võ Nguyên Giáp.

Học giả người Mỹ Currey nhắc tới 9 cái tên từng đối đầu với tướng Giáp: Leclerc, Jean Valluy, Blaizot, Carpentier, Alessandri, De Lattre, Salan, Navarre và De Castries. Ngoài De Castries được phong tặng quân hàm thiếu tướng khi giữ Điện Biên Phủ, 8 cái tên còn lại đều là Đại tướng hoặc Trung tướng và nối nhau giữ vai trò chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường Đông Dương.

Lối đánh phá bỏ chiến tranh quy ước

"Chúng ta vẫn nói tới việc Đại tướng từng đánh bại 9 tướng Pháp. Vậy, khái niệm "thắng" ở đây cần được hiểu và định lượng theo cách nào? " Đó là câu hỏi TT&VH đặt ra với một số nhà nghiên cứu lịch sử quân sự.

Và, câu trả lời chung được đưa ra: không phải viên tướng Pháp nào cũng trực tiếp nhận về một thất bại quân sự quyết định, như trường hợp De Castries và Navarre với Điện Biên Phủ. Nhưng, với việc liên tục bẻ gãy kế hoạch bình định của các tướng Pháp, buộc các mũi quân viễn chinh phải sa lầy trên khắp VN và từng bước phát triển lực lượng còn non trẻ của mình, không ai có thể phủ nhận từ "chiến thắng" được dành cho tướng Giáp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp bàn kế hoạch quân sự tại Sở chỉ huy Chiến dịch biên giới (năm 1950). Ảnh: Tư liệu TTXVN
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp bàn kế hoạch quân sự tại Sở chỉ huy Chiến dịch biên giới (năm 1950). Ảnh: Tư liệu TTXVN
Với các học giả quốc tế, cách cầm quân của tướng Giáp giai đoạn 1946 - 1950 được phân tích khá kĩ theo sự vận động và tỉ lệ phát triển lực lượng của cả 2 phía. Tránh giáp chiến ở quy mô lớn, buộc nắm đấm chủ lực của người Pháp giáng vào khoảng không, linh hoạt tập trung mọi lực lượng quân sự có thể để đánh tập kích hoặc triệt nguồn tiếp tế tại chỗ  - đó là lựa chọn của Đại tướng và khiến kẻ thù không thể khẩn trương tiêu diệt chủ lực Việt Minh như ý muốn.

Khởi đầu cho chuỗi thời gian chật vật của nước Pháp trên chiến trường Đông Dương là thất bại của chiến dịch Lea (Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947) cuối năm 1947. Cuộc hành quân huy động tới 12.000 quân nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến tại khu vực Thái Nguyên, Bắc Cạn phá sản trong 2 tháng - khi các lực lượng kháng chiến VN vừa phòng ngự linh hoạt, vừa tập trung tổ chức nhiều trận phục kích rất hiệu quả trên các mặt trận đường số 3, đường số 4, sông Lô, đèo Bông Lau… Và, sau chiến dịch Lea, một loạt cuộc hành binh tiếp theo cũng rơi vào kịch bản tương tự. Dù biết trước, các tổng tư lệnh Pháp vẫn không thể khắc chế được lối đánh vượt thoát khỏi mô hình chiến tranh quy ước ấy.
"Thời kì chống Pháp là minh chứng rõ tài năng của Đại tướng ở cương vị một chỉ huy quân sự trực tiếp, trước khi được nâng tầm trở thành một vị tướng chiến lược trong  chiến tranh chống Mỹ sau này" -  TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử Quân sự VN) nhận xét - "Thực tế diễn ra hoàn toàn trùng khớp với 3 nguyên tắc cầm quân mà tướng Giáp từng tổng kết: Tôn trọng đối thủ; không đánh bằng quân số giống như đối thủ; không đánh theo cách đánh đã được chuẩn bị của đối thủ".
Năm 1950, những nguyên tắc đòi hỏi sự linh hoạt, nhạy bén và vượt trước đối thủ về tầm nhìn như vậy đã thể hiện trọn vẹn trong chiến dịch Biên giới.
Ban đầu, cơ quan tham mưu chọn thị xã Cao Bằng làm điểm đột phá tấn công để mở đầu chiến dịch. Tuy nhiên, khi thị sát và thấy vị trí này có nhiều bất lợi, tướng Giáp quyết định tạm thời chỉ cô lập thị xã Cao Bằng và chuyển sang tấn công cứ điểm Đông Khê cách đó 45 km, sau đó tiếp tục phục kích các cánh quân cứu viện. Kết quả: sau một loạt trận đánh liên tiếp, người Pháp buộc phải rút bỏ hoàn toàn khỏi vành đai biên giới kéo từ Việt Bắc tới Lạng Sơn. Cách mạng VN đã nối liền được với những đồng minh của mình.

"Kiến trúc sư" của đạo quân hiện đại
"Phát đạn ân huệ" cho tướng Navare

Trong cuộc kháng chiến 9 năm, Người Pháp liên tục bị kéo giãn và sa lầy - trong khi đội quân của tướng Giáp không ngừng lớn mạnh. Sự thay đổi theo chiều tỷ lệ nghịch ấy kéo dài tới năm 1953, khi tướng Navare được cử sang VN. Tác giả Currey nhận xét hóm hỉnh rằng vị tổng chỉ huy này tới gặp tướng Giáp để nhận "phát đạn ân huệ" cho con đường binh nghiệp của mình. Năm 1956, trở về Pháp, Navarre nghỉ hưu và... chuyển sang viết sách, với tác phẩm duy nhất là Đông Dương hấp hối, nói về thất bại của chính ông.
Nhưng, vượt khỏi vai trò của một vị chỉ huy chiến tranh du kích, điều khiến các học giả phương Tây kinh ngạc ở tướng Giáp là khả năng đi lên từ con số 0 để xây dựng một đội quân chuyên nghiệp, có nền tảng quân sự hoàn thiện và đầy tính tổ chức. 8/1949, dù vẫn bị cô lập hoàn toàn với phong trào cách mạng thế giới, Đại đoàn chính quy đầu tiên của VN được Đại tướng cho thành lập với phiên hiệu 308 (quân số gần 12.000 người) và học cách đánh vận động theo quy mô lớn. Tiếp đó, lần lượt các đại đoàn 304, 312, 316, 320... xuất hiện.
Đặc biệt, trong tác phẩm Chiến thắng bằng mọi giá, tác giả Currey cho biết: tướng Giáp cùng lúc áp dụng cả mô hình tổ chức quân đội của Pháp và Liên Xô cho những đạo quân của mình. Năm 1950, Đại tướng đã tiến hành cải tổ Bộ Tổng tham mưu - vốn chỉ gồm những cố vấn quen với các kế hoạch tác chiến theo kiểu du kích. Một mô hình hiện đại và "đặc sệt Pháp" được đặt ra, với “phòng I” lo về nhân sự, “phòng II” về tình báo, “phòng III” về tác chiến và “phòng IV” về hậu cần. Ngược lại, năm 1951, Đại đoàn trọng pháo 351 được thành lập, theo mô hình tổ chức của pháo binh Xô viết.

"Sự linh hoạt uyển chuyển, để phối hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh hiện đại, giữa lối đánh nhỏ và lối vận động chiến ở quy mô tập trung là một điểm xuyên suốt trong tư duy tướng Giáp" - TS Vũ Tang Bồng nhận xét.

Từ những nguồn lực nào mà tướng Giáp có thể xây dựng những đạo quân như vậy? Câu trả lời rất đơn giản: Sự ủng hộ tuyệt đối trên mọi phương diện của nhân dân VN.

"Các tướng Pháp không bao giờ hiểu được điều này. Họ đến từ một quốc gia mà trong nhiều thế kỷ, quan điểm xuyên suốt vẫn là: Mục tiêu quân sự luôn phải được quan tâm tối ưu trên chiến trường, Bởi thế, với họ, kiểm soát được các vùng đất quan trọng là hoàn thành nhiệm vụ" - Currey viết - "Còn tướng Giáp lại không hề vướng vào định kiến ấy, mà ông hiểu rằng điều cần nhất là sự ủng hộ của nhân dân. Người Pháp không bao giờ biết tận dụng "đồng minh" này và rơi vào cảnh phải chiến đấu một mình, trong khi tướng Giáp luôn yêu cầu chiến sĩ phải vận động quần chúng khi không trực tiếp chiến đấu".
(Còn nữa)
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Nghiên cứu 'Binh thư' của Đại tướng (kỳ 3): Đại tướng được 'chọn mặt gửi vàng'

Đặt bên cạnh khá nhiều gương mặt được đào tạo bài bản, từng tốt nghiệp Học viện quân sự Hoàng Phố ở Trung Quốc, tại sao Hồ Chủ tịch lại trao quyền tổng chỉ huy cho một thầy giáo dạy sử? Đó là câu hỏi luôn được các nhà nghiên cứu đưa ra khi bàn về Đại tướng.

Cần nói thêm, trong thời kì liên minh Quốc – Cộng chống phát xít Nhật, Học viện Hoàng Phố (Quảng Châu) được Liên Xô trực tiếp hỗ trợ để đào tạo hàng loạt sĩ quan cao cấp cho Trung Quốc. Với sự tham gia của rất nhiều giảng viên quân sự Liên Xô, từ khóa IV, trường võ bị này đã nhận đào tạo cả một số học viên Việt Nam như Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Hoàng Văn Thái, Nam Long... Nhiều năm sau đó, họ đều là những tướng lĩnh chủ chốt của VN trong 2 cuộc kháng chiến.
Đăng đàn bái tướng ở Định Hóa
4 năm sau khi gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp trở thành tổng chỉ huy quân sự đầu tiên của cách mạng (Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, thành lập ngày 22-12-1944). Cứ theo dòng chảy ấy, 4 năm sau nữa, ông trở thành Đại tướng đầu tiên của VN và bắt đầu những chiến công quan trọng nhất của mình.

"Chúng ta bắt buộc phải đặt một câu hỏi tế nhị: tại sao, thay vì những gương mặt khác, Hồ Chủ tịch lại dành vị trí Tổng chỉ huy quân sự đầu tiên cho Võ Nguyên Giáp – một giáo viên sử học ở tuổi 34"? - TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử Quân sự VN), nói. "Sẽ không đủ nếu chỉ giải thích rằng Bác có sự nhạy cảm đặc biệt để sớm nhìn ra tài năng thiên bẩm của Đại tướng".
Ngọn đồi Nà Lọm (Định Hóa, Thái Nguyên) - nơi Võ Nguyên Giáp trở thành Đại tướng đầu tiên của VN- hiện đã trở thành di tích lịch sử và vẫn được nhân dân gọi là Đồi phong tướng. Trong những ngày qua, rất đông người dân Thái Nguyên đã tới đây thắp hương tưởng niệm ông
Ngọn đồi Nà Lọm (Định Hóa, Thái Nguyên) - nơi Võ Nguyên Giáp trở thành Đại tướng đầu tiên của VN- hiện đã trở thành di tích lịch sử và vẫn được nhân dân gọi là Đồi phong tướng. Trong những ngày qua, rất đông người dân Thái Nguyên đã tới đây thắp hương tưởng niệm ông.
Thẳng thắn, TS Bồng đưa ra quan điểm cá nhân: "Đại tướng có 2 đặc điểm nổi trội là khả năng vận động quần chúng cực tốt và sự uyên bác, chỉn chu, ham nghiên cứu của một giáo sư sử học."Theo phân tích của ông, ưu điểm thứ nhất rất phù hợp với quan điểm xây dựng và tổ chức lực lượng quân sự của VN - vốn thể hiện rõ qua cái tên Tuyên truyền Giải phóng quân. Ưu điểm thứ hai sẽ được phát huy và nâng cao thành sự sáng tạo của Đại tướng trong suốt 2 cuộc chiến tranh sau này, khi chúng ta phải đương đầu với những đội quân chuyên nghiệp, bài bản và có ưu thế quân sự tuyệt đối.

Xa hơn, Đại tá Lê Thế Mẫu (nguyên chuyên gia Viện chiến lược Quốc phòng) nhận xét: "Sự lựa chọn ấy nằm ở việc Hồ Chủ tịch hiểu rất rõ: chỉ chiến tranh nhân dân, với đặc trưng về việc huy động nhân tố con người, biến cuộc kháng chiến thành mục tiêu của toàn dân, mới là lựa chọn hợp lý nhất để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến này. Và, với sự tương đồng tuyệt đối từ Đại tướng, Hồ Chủ tịch đã tìm được một gương mặt để vận dụng cực kì xuất sắc tư tưởng quân sự vốn là đặc trưng của lịch sử VN ".

Trong câu chuyện với TT&VH, TS Vũ Tang Bồng nhiều lần sử dụng cụm từ "đăng đàn bái tướng" khi nói tới lễ phong tặng danh hiệu Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp ngày 28-5-1948. "Không chỉ qua tư liệu, tôi đã được nghe những người có mặt tại đó kể lại. Đó là một lễ phong tặng vừa có tính tôn vinh, vừa thể hiện niềm tin tuyệt đối của  Chủ tịch vào Đại tướng" - TS Bồng nói - "Hầu hết những gương mặt chủ yếu của Chính phủ kháng chiến khi đó như Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại... cũng đều có mặt trên ngọn đồi Nà Lọm (Định Hóa, Thái Nguyên). Nhắc lại sự kiện ấy, anh em chiến sĩ vẫn gọi là lễ "Đăng đàn bái tướng" cho vị Đại tướng đầu tiên của VN và các cấp chỉ huy khác.

Quyết định đầu tiên về chiến tranh nhân dân

Sau thời điểm toàn quốc kháng chiến 1946, lực lượng quân sự và tự vệ VN lần lượt rút lên các căn cứ địa, an toàn khu trên cả nước để bắt đầu cuộc chiến tranh trường kì.

Theo TS Vũ Tang Bồng, ở  thời kì đặc biệt này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phải đối mặt với những lựa chọn đầu tiên trong việc xây dựng chiến lược quân sự. Bởi, một nguyện vọng rất phổ biến trong quân đội khi đó là sớm được chính quy hóa và ham đánh lớn.
Tướng Giáp trở thành Tổng chỉ huy quân sự đầu tiên năm 1944, khi đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập.
Tướng Giáp trở thành Tổng chỉ huy quân sự đầu tiên năm 1944, khi đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập.
"Đa phần, những chuyên gia quân sự đầu tiên của VN khi ấy đều học ở trường Hoàng Phố, hoặc chịu ảnh hưởng một phần từ học thuyết quân sự Liên Xô. Ngoài ra, các hàng binh người Nhật, hoặc các nhóm chiến sĩ quốc tế cũng là một nguồn cung cấp kiến thức quân sự khá quan trọng" - TS Bồng nói - " Cộng cùng tâm lý nôn nóng, khao khát sớm giành thắng lợi, những lý luận quân sự hiện đại được nhắc tới đã tác động tới chúng ta khá nhiều".
TS Bồng cho biết: Ngay từ sau 1946, một số đơn vị quân sự cấp Đại đoàn đã được thành lập tại mặt trận Nam Trung Bộ như Đại đoàn 23, Đại đoàn 21, nhưng sau đó phải hoãn lại vì chưa đủ điều kiện. Vài năm sau, nhiều lãnh đạo của Chính phủ kháng chiến cũng đề nghị sớm thành lập một lực lượng cấp Đại đoàn để tham gia đánh lớn trong các chiến dịch phản công.

Các sử liệu quân sự hiện có đều ghi rất rõ về quyết định của tướng Giáp trong giai đoạn này bằng cụm từ "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung". Vắn tắt, với trang bị thô sơ và sự non trẻ về kinh nghiệm tác chiến, lực lượng quân sự VN không có sự tập trung để tham gia những trận đánh lớn theo mô hình chiến tranh quy ước. Ngược lại, các lực lượng cần phân tán theo quy mô từng đại đội chủ lực, tránh mũi nhọn tấn công của quân viễn chinh Pháp, từ đó từng bước tiến sâu vào hoạt động trong các vùng tạm chiếm của địch.

"Đó là một quyết định cực kì sáng suốt, khi các đại đội chủ lực có vai trò dìu dắt, phát triển phong trào du kích địa phương và liên tục mở rộng thế trận, kéo giãn hậu phương của người Pháp thành tiền phương của mình" - TS Bồng nói - "Và, với việc tận dụng sức mạnh và sự ủng hộ của nhân dân như vậy, sự phát triển về lực lượng quân sự của VN được đẩy lên rất nhanh, để khi cần thiết có thể lập tức phối hợp, tác chiến tập trung ở quy mô cấp tiểu đoàn".

Nhưng,  tướng Giáp sẽ còn phải giải quyết tâm lý nôn nóng, khao khát được đánh lớn, đánh gấp như vậy trong nhiều năm sau đó, cho tới tận chiến dịch Điện Biên Phủ.
(Còn nữa)
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Nghiên cứu 'Binh thư' của Đại tướng (kỳ 2): Những 'bậc thầy quân sự' của tướng Giáp

"Tôi không hiểu tướng Giáp đã bí mật tốt nghiệp Học viện võ bị nào không? Vẫn biết, đó là một giáo sư từng dạy sử Hà Nội. Nhưng đâu phải nguồn kiến thức nào cũng có thể được biến thành tri thức quân sự, người trí thức nào cũng có thể tự học để trở thành vị tướng tài?" -Tướng De Castries thắc mắc như vậy sau khi bị bắt sống.

Thiếu tướng Cao Pha, Phó cục trưởng Cục quân báo trong chiến dịch Điện Biên Phủ, kể lại câu chuyện trên trong một bài viết. Như lời ông, tại buổi hỏi cung De Castries, viên tướng bại trận này đã tự đặt ra những nghi vấn khá ly kỳ.

De Castries cho rằng vị Đại tướng của VN hẳn đã tham dự những khóa học dài hạn về quân sự tại Liên Xô hoặc trường võ bị Hoàng Phố (Trung Quốc). Thậm chí, có thể Võ Nguyên Giáp từng được chính người Pháp đào tạo (sau đó... mới gia nhập Việt Minh), hoặc từng hấp thụ những kiến thức quân sự cơ bản của Mỹ thông qua nhóm Con Nai (một đơn vị của Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ, đã nhảy dù xuống Tân Trào năm 1945 để hỗ trợ VN kháng Pháp trong tư cách Đồng Minh).
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí trong Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến (năm 1953). Ảnh: Tư liệu TTXVN
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí trong Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến (năm 1953). Ảnh: Tư liệu TTXVN
Tôn Tử, Lawrence hay Kutuzov?
Sự thực, các sử gia trong và ngoài nước đều có sự đồng thuận cao: suốt cuộc đời mình, tướng Giáp chưa hề được đào tạo tại một trường võ bị nào. Và, theo TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử Quân sự VN), Đại tướng cũng chỉ một lần duy nhất sang Học viện quân sự Phrunze (Liên Xô)  vào đầu thập niên 1960 để dự một chương trình hội thảo, chia sẻ kinh nghiệm trong vài tháng.

Bởi vậy, thay cho việc xác định "trường đào tạo quân sự" của huyền thoại này, các nghiên cứu từ nhiều năm qua luôn tập trung vào một câu hỏi: với kiến thức sử học phong phú và vốn ngoại ngữ xuất sắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu thích nhất học thuyết và phong cách quân sự nào – để từ đó tự rút ra những kiến thức cơ bản cho nghệ thuật cầm quân của mình?

Tôn Tử (Trung Hoa), Clausewitz (Đức), Lawrence (Anh), Napoleon (Pháp), Kutuzov (Nga) là những cái tên luôn được đem ra so sánh và bàn cãi quanh vấn đề này. Trong đó, với quan điểm lấy ít địch nhiều, coi thắng lợi trọn vẹn nhất là không cần đánh mà bắt kẻ địch phải khuất phục, pho binh pháp Tôn Tử cũng thường  xuyên được nhắc tới khi nói về một vị tướng phương Đông như Võ Nguyên Giáp.

Tuy nhiên,  một thông tin khá thú vị được tác giả Currey đưa ra trong tác phẩm Chiến thắng bằng mọi giá. Theo đó, Đại tướng từng có lần nhắc một nguyên tắc cầm quân của Tôn Tử: nếu lực lượng địch đông gấp mười lần thì không nên đánh. Ở cuốn sách của Currey, tướng Giáp đặt câu hỏi: nếu  theo cách ấy, VN không bao giờ chiến thắng được người Pháp và người Mỹ. Tôn Tử đã không tự chỉ ra cho chúng tôi cách giải quyết khó khăn ấy như thế nào?

Luận điểm của Currey cho rằng tác phẩm quân sự Bảy cột trụ của sự khôn ngoan, được viết bởi Lawrence (một sĩ quan huyền thoại người Anh từng lãnh đạo du kích Ả Rập trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất) có ảnh hưởng tới  Đại tướng mạnh nhất. "Nhiều người nói rằng tướng Giáp thường mang cuốn sách này bên người" - Currey viết - "Đó là một công trình viết rất kĩ về chiến tranh không chính quy và cách làm những kẻ thù vốn được đào tạo bài bản phải lẫn lộn, bối rối khi sa vào thế trận này".

Còn theo thiếu tướng Lê Mã Lương, 3 bậc thầy quân sự được tướng Giáp quan tâm nhiều nhất là Napoleon (Pháp), Kutuzov (Nga) và  Clausewitz (Đức) - tác giả của công trình Bàn về chiến tranh, viết trong thế kỷ XIX.
"Đại tướng tìm hiểu rất kĩ về Kutuzov, kĩ hơn nhiều so với vai trò của một vị tướng từng đánh bại
Chưa ai đặt câu hỏi Julius Caesar đã học trường quân sự nào? Alexander, Hanibal, George Washington và cả Lawrence cũng vậy. Cũng như Võ Nguyên Giáp, các danh nhân đó đã tự học, tự nghiên cứu lịch sử quân sự, chiến lược, chiến thuật, và vận dụng những điều từng học trong những hoàn cảnh cụ thể có thể rút ra bài học từ những sai lầm. Đó là cách mà Võ Nguyên Giáp làm với những tướng Pháp như Leclerc, Valluy, Navarre... (B.Currey - Chiến thắng bằng mọi giá)
Napoleon trong cuộc xâm lược nước Nga năm 1812" - Thiếu tướng Lê Mã Lương nói - "Có lần hầu chuyện, tôi nói vui: “Kutuzov có một điểm giống cháu”. Đại tướng cười: “Ừ, Kutuzov cũng mất một con mắt như Lương, sau vết thương trong chiến tranh Nga - Thổ".        
Kho tàng kinh nghiệm quân sự của  dân tộc
Nhưng, dù bàn cãi về việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu thích và tiếp thu học thuyết quân sự nào, quan điểm của các nhà nghiên cứu lại một lần nữa gặp nhau ở điểm chung: tính sáng tạo và linh hoạt - điều khiến  tướng Giáp trở thành một hiện tượng độc đáo trong lịch sử thế giới. Xa hơn, trong vai trò một anh hùng dân tộc, nghệ thuật cầm quân của ông, dù có những đặc trưng rất riêng, cũng không thể tách rời lịch sử giữ nước VN, với hàng chục cuộc chiến tranh vệ quốc điển hình

"Giới nghiên cứu của chúng ta từ lâu đã đặt câu hỏi: trong lịch sử, liệu có thể coi rằng VN đã tồn tại một học thuyết quân sự riêng của mình không? Cá nhân tôi cho là có - mặc dù học thuyết ấy chưa có điều kiện được nghiên cứu chuyên sâu và biên soạn thành những cẩm nang đặc biệt"-  Đại tá Lê Thế Mẫu, nguyên chuyên gia của Viện chiến lược Quốc Phòng - trao đổi với TT&VH - "Và đến thời của Đại tướng, học thuyết ấy đã được ông nâng lên một tầm mới, trong bối cảnh kẻ thù đã có vài trăm năm phát triển kinh tế trước chúng ta, chứ không đến từ một nền sản xuất nông nghiệp tương đồng".

Khái niệm về "học thuyết quân sự VN" được đại tá Mẫu đưa ra rất ngắn gọn: nghệ thuật phát huy chiến tranh nhân dân, lấy ít địch nhiều, "dùng đoản binh để thắng trường trận"- như lời của Trần Hưng Đạo. "Nếu cố so sánh, chúng ta sẽ thấy học thuyết này có một số điểm tương đồng với  các phong trào chiến tranh du kích trên thế giới" - Đại tá Mẫu nói - "Nhưng, trong điều kiện riêngVN, chúng ta lại có những sáng tạo hết sức độc đáo về lối đánh, về cách tận dụng thế mạnh của địa hình, và đặc biệt là về việc huy động sức mạnh từ nguồn lực vĩnh cửu là nhân dân".

Nhà văn Lưu Sơn Minh, một tác giả chuyên viết truyện lịch sử, đưa ra nhận xét khá xúc động về tướng Giáp: Giá như không có chiến tranh, Võ Nguyên Giáp sẽ có thể mãi mãi là một người thầy giáo dạy Sử bình thường.Một người thầy ngày ngày kể cho học sinh nghe những câu chuyện về Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung... Nhưng lịch sử đã dẫn dắt cuộc đời ông theo một hướng khác và trao vào tay ông một sứ mệnh vĩ đại. Ông  không thể tiếp tục ngày ngày kể cho học sinh nghe những câu chuyện về các vị Anh hùng. Những thầy giáo dạy sử khác sẽ làm điều đó. Và hơn thế, họ sẽ kể cho học sinh nghe về ông-một Anh hùng.
GS Phan Huy Lê nói về “binh thư” của Đại tướng
Sách nghiên cứu về “Binh thư yếu lược”.
Sách nghiên cứu về “Binh thư yếu lược”.
“Ông là nhà quân sự vào loại rất hiếm hoi không những đã chỉ huy cuộc kháng chiến mà còn tiến hành tổng kết được kinh nghiệm của chiến tranh để lại một số tác phẩm có giá trị như binh thư hiện đại. Đó là tác phẩm Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng, Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân, Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Trước đây, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là người đầu tiên đã soạn được hai bộ binh thư: Binh gia yếu lược (hay Binh thư yếu lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền thư, nhưng cả hai đều thất truyền. Hiện chỉ còn Hịch tướng sĩ và Lời di chúc của Trần Hưng Đạo là một phần tổng kết mang tính binh thư. Thế kỷ 18, nhà quân sự lỗi lạc Đào Duy Từ viết bộ binh thư thứ ba là Hổ trướng khu cơ còn truyền đến nay. Đào Duy Từ không trực tiếp cầm quân nhưng giữ vai trò như cố vấn của chúa Nguyễn trong cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn.
Mãi đến ngày nay, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị thống soái trực tiếp chỉ huy chiến tranh đã để lại những tổng kết mang tính binh thư hiện đại”.

                                                                                  (GS Phan Huy Lê - TNO)
(Còn nữa)
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Nghiên cứu 'Binh thư' của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (kỳ 1): Đừng gọi Đại tướng là 'Napoleon của Việt Nam'!

"Đó là vị thống soái trực tiếp chỉ huy chiến tranh và đã để lại những tổng kết mang tính binh thư hiện đại" -  GS Sử học Phan Huy Lê đưa ra một nhận xét ngắn gọn về Đại tướng Võ Nguyên Giáp.


Pho "binh thư" ấy đã được thể hiện như thế nào trong sự nghiệp cầm quân của vị tướng huyền thoại này?

TT&VH đã tìm gặp một số chuyên gia về sử học và lịch sử quân sự, đồng thời tham chiếu một số tư liệu của các học giả quốc tế, với mong muốn làm rõ câu hỏi trên.

"Tôi không nghĩ Đại tướng có phong cách cầm quân giống Napoleon. Đó chỉ là một cách so sánh theo kiểu thi vị hóa chứ không có nhiều logic" - Đại tá, TS Vũ Tang Bồng (Viện Lịch sử quân sự VN), chia sẻ.
Tạp chí Time của Mỹ- tờ báo đầu tiên so sánh tướng Giáp với Napoleon - đã 3 lần sử dụng ảnh Đại tướng làm trang bìa trong các năm 1966, 1968,1972
Tạp chí Time của Mỹ- tờ báo đầu tiên so sánh tướng Giáp với Napoleon - đã 3 lần sử dụng ảnh Đại tướng làm trang bìa trong các năm 1966, 1968,1972
Mối quan tâm của học giả Phương Tây
Năm 1966, tạp chí Time (Mỹ) lần đầu tiên sử dụng khái niệm khái niệm này: nhắc đến một "Napoleon của Việt Nam" với luận điểm quân sự xuyên suốt: Đánh là thắng, chỉ đánh khi chắc thắng, nếu không thắng thì không đánh.

Từ thời điểm ấy, cụm từ trên đã được báo chí phương Tây  ưa chuộng và lặp lại một số lần. Khá thú vị, theo thống kê vui của giới sử học trong nước, tướng Giáp là một trong số những danh tướng  hiếm hoi thường xuyên được so sánh với Napoleon theo cách ấy. (Chỉ có một trường hợp khác là nguyên soái Tukhachevsky của Liên Xô, cũng được phương Tây gọi bằng cụm từ Bornapate Đỏ)

TS Vũ Tang Bồng đưa ra 3 lý giải về sự liên tưởng được độc đáo ấy: Đại tướng là người trực tiếp đánh bại đạo quân viễn chinh đến từ quê hương của Napoleon; Đại tướng cũng có vóc người hơi thấp như thiên tài quân sự nước Pháp. Và cuối cùng, đó là sự quan tâm đặc biệt của tướng Giáp tới Napoleon, ngay từ khi còn đang là một giảng viên lịch sử ở tuổi thanh niên.

Khá nhiều tài liệu, cả trong và ngoài nước, đã trích lời khẳng định của Đại tướng về sự quan tâm đặc biệt này. Thậm chí, trong cuốn Chiến thắng bằng mọi giá viết về ông, học giả Mỹ B.Currey đã liên lạc với với các học trò cũ của Võ Nguyên Giáp tại trường tư thục Thăng Long khi xưa. Những người học trò (hiện nay cũng đã ở tuổi 70, 80) này kể rằng thầy Giáp có thể vẽ trên bảng đen bất cứ chi tiết cụ thể nào về từng trận đánh của Napoleon, về việc tại sao một đội long kỵ binh lại được bố trí ở một vị trí chính xác như thế, hay việc đội cận vệ của Napoleon đã nổ súng đúng lúc như thế nào. Thậm chí, khi giảng dạy về lịch sử Pháp giai đoạn cuối thế kỉ XVIII- giữa thế kỷ XVIII, vị thầy giáo trẻ này đã nhìn thẳng vào học sinh: Có rất nhiều sách nói về lịch sử Pháp trong giai đoạn này, các em có thể tham khảo nếu muốn. Tôi sẽ chỉ nói với các em về hai chủ đề: Cách mạng Pháp và Napoleon.

Cùng với nhiều cuộc trao đổi thư từ, B.Currey đã trực tiếp phỏng vấn Đại tướng vào năm 1988 để hoàn thành cuốn sách này. Ông viết: Võ Nguyên Giáp nói rằng ông giảng giải kỹ về các trận đánh của Napoleon đơn giản vì trách nhiệm phải giảng về Cách mạng Pháp. Bởi vậy, ông phải nghiên cứu kỹ chiến lược và chiến thuật của Napoleon.
Học người Pháp để thắng người Pháp

Thực tế, các sử gia VN không quan tâm nhiều tới câu chuyện này. Bên cạnh cảm xúc  về việc Việt Nam muốn có một vị Đại tướng của riêng mình (chứ không phải bản sao của Napoleon), một lý do chung được đưa ra: Napoleon được biết đến như một vị hoàng đế kiêm tổng tư lệnh các đạo quân viễn chinh Pháp, từng xâm lược Tây Ban Nha, Nga, Đức, Ý, Ai Cập... Ngược lại, tướng Giáp của nhân dân VN lại đi lên từ một người thầy giáo bình thường, và chỉ làm sứ mệnh giữ nước mà lịch sử đặt lên vai mình.
Một bức tranh về trận Borodino (1812) của Louis Lejeune. Quan tâm tới Napoleon, Đại tướng cũng hiểu rất kĩ về trận đánh này, khi Napoleon sa vào thế trận chiến tranh vệ quốc của người Nga.
Một bức tranh về trận Borodino (1812) của Louis Lejeune. Quan tâm tới Napoleon, Đại tướng cũng hiểu rất kĩ về trận đánh này, khi Napoleon sa vào thế trận chiến tranh vệ quốc của người Nga.
"Nếu bỏ qua vấn đề ấy thì bản thân phong cách cầm quân của Đại tướng cũng không giống Napoleon.  Napoleon dùng binh chớp nhoáng, thiên về giải quyết các chiến dịch ở mức nhanh nhất có thể, tập trung tối đa sức mạnh của kỵ binh và pháo binh để tạo đòn tấn công chủ lực nhằm xoay chuyển trận đánh theo hướng có lợi nhất cho mình" - Thiếu tướng Lê Mã Lương (nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) nhận định với TT&VH. "Trong khi đó, Đại tướng có phong cách cầm quân thận trọng, giảm thiểu tổn vong ở mức thấp nhất, và thường tìm cách đưa đối phương vào bẫy của mình để tiêu hao sinh lực, trước khi ra đòn quyết định. Xét cho cùng, chính lối đánh nhanh, cố gắng tránh sa lầy của một đạo quân viễn chính và lối đánh trường kỳ, sử dụng chiến tranh nhân dân của một đạo quân kháng chiến đã tạo nên 2 sở trường khác hẳn nhau ấy".

TS Vũ Tang Bồng khẳng định với TT&VH: Nếu gắng so sánh, cũng có thể nói rằng tướng Giáp giống Napoleon ở chỗ yếu hơn về tổng thể, nhưng lại rất biết cách tập trung binh lực, hỏa lực tối đa để lần lượt giành những chiến thắng có tính chiến lược- trước khi giải quyết chiến dịch bằng trận đánh cuối cùng. Nhưng, sự thật, đó là một nguyên tắc rất cơ bản trong nghệ thuật vận động binh lực, và phụ thuộc vào tài năng cũng như sự nhạy bén của người thực hiện, chứ không thể quy riêng cho một học thuyết quân sự nào.

Để chốt lại vấn đề về tướng Giáp và Napoleon, Thiếu tướng Lê Mã Lương kể một câu chuyện riêng. Trong một cuộc trò chuyện giữa ông và Đại tướng, cái tên Napoleon tình cờ được nhắc tới. Đại tướng hỏi: "Lương có biết mình quan tâm tới trận đánh nào của Napoleon không? Đó là trận Borodino ở cửa ngõ Mạc Tư Khoa năm 1812, khi tướng Kutuzov cầm chân Napoleon trong suốt một ngày trời".

"Đại tướng phân tích khá lâu về nghệ thuật dùng binh của Kutuzov, khi chọn địa hình, thời tiết, và thời điểm bắt đầu trận đánh để quân Pháp không thể vận hành linh hoạt các cỗ pháo của mình" - Thiếu tướng Lê Mã Lương nói - "Tôi nghĩ vui: hẳn Đại tướng là người hiểu tâm trạng của Kutuzov trong trận đánh đó nhất. Cũng như danh tướng của nước Nga, ông phải gắng hiểu người Pháp tới chân tơ kẽ tóc, để từ đó bẻ gãy sở trường của họ và bắt đạo quân viễn chinh Pháp rơi vào thế trận chiến tranh nhân dân của mình".
(Còn nữa)
Theo Hoàng Nguyên (Thể thao & Văn hóa)

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

Vĩnh biệt Đại tướng Võ Nguyên Giáp – vị anh hùng huyền thoại!

Ngày Đại tướng ra đi cho đến lúc Người hòa vào lòng đất mẹ, hàng triệu trái tim trên khắp cả nước thổn thức, đau buồn và tiếc thương vị anh hùng, những cảm xúc ấy khó diễn tả hết bằng lời nhưng tất cả là sự kính trọng, biết ơn đối với Người. 

Chưa bao giờ người dân Việt Nam lại cảm thấy hụt hẫng, đau buồn như những ngày này. Tất cả cảm xúc, tất cả tình yêu thương, sự kính trọng đều hướng về Đại tướng Võ Nguyên Giáp – vị anh hùng của cả dân tộc. Người đã làm nên chiến thắng vẻ vang, đưa đất nước ta đi đến hòa bình, phát triển như hôm nay, buộc thế giới phải thay đổi cách nhìn về đất nước Việt Nam, ở đó có những anh hùng, những con người kiên cường trước gian khổ. Trong trái tim của mỗi người, hình ảnh vị Đại tướng rất đỗi thân thương và gần gũi như người thân ruột thịt của mình. Cũng chính vì lẽ đó mà khi Bác mất, hàng triệu người đã bật khóc trong sự tiếc thương vô hạn. Ai cũng cảm thấy đau buồn, tiếc nuối vì mất đi vị anh hùng đáng kính.



44 năm trước, khi Bác Hồ, vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc vĩnh viễn ra đi, người dân Việt Nam và cả bạn bè thế giới đã chìm trong nước mắt. Giờ khắc tiễn biệt Người, cả đất nước khóc, thế giới khóc và cả ông trời cũng phải “khóc”, “đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”. Thì đến bây giờ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người học trò ưu tú của Bác Hồ rời xa thế giới để về với Bác cũng khiến hàng triệu người khóc trong nhạt nhòa, tiếc nuối. Từ mảnh đất địa đầu của Tổ quốc trải dọc xuống phương Nam, cũng như quê hương Quảng Bình – nơi Đại tướng sinh ra và lớn lên đều chìm trong nỗi đau vô bờ.



Những ngày có mặt tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, chúng tôi chứng kiến nhiều hình ảnh hết sức cảm động. Người dân từ khắp mọi miền đất nước đổ về đây để dâng hương, tiễn biệt vị Đại tướng kính yêu. Người già, trẻ nhỏ, anh em, bà con làng xóm thân thuộc và cả những người dân đang sinh sống khắp mọi miền đều rơi nước mắt xúc động. Trước bàn thờ của Đại tướng, những dòng nước mắt ấy cứ tuôn chảy. Càng nghĩ đến Bác, càng nhìn Bác thì nỗi buồn ấy cứ da diết, nhức nhối tâm can. Thế mới thấy hết tình yêu thương mà mọi người hướng về Đại tướng lớn đến mức nào.

Dòng sông Kiến Giang những ngày này cũng trở nên tĩnh lặng bởi từ nay không còn được đón Bác dạo trên sông xem hội đua thuyền, ngồi hóng mát và ngắm cảnh. Cả ngôi nhà tuổi thơ bình dị, cây khế, cây mít, những kỷ vật gắn liền với Bác một thời cũng không còn được Bác ghé thăm.

Ngày chính thức diễn ra Lễ viếng Đại tướng, hàng triệu con người phải xếp hàng chờ đợi từ sáng sớm đến tận đêm khuya, kể cả đứng dưới mưa để được vào dâng lên Người nén tâm nhang và nhìn thấy Bác lần cuối. Trong suy nghĩ của mỗi người, Đại tướng chính là tất cả, là tấm gương sáng suốt đời họ kính trọng.

Khi Bác chưa về đến Quảng Bình, hàng vạn người dân cứ lóng ngóng chờ đợi Bác trở về, hòa vào đất mẹ yêu thương. Hơn 90 năm Đại tướng rời quê hương theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, và bây giờ Bác mới thực sự trở về, tình cảm cảm ấy vẫn nguyên vẹn và càng đậm sâu.




Hòa vào dòng người đang thấp thỏm chờ đợi, tiễn đưa Đại tướng về với đất mẹ, tôi cũng như hàng triệu người dân không nén được cảm xúc đang cuồn cuộn, trào dâng trong lòng. Đó là một sự mất mát quá lớn lao không có gì bù đắp nổi đối với cả dân tộc Việt Nam.

Ngày 13/10, thực sự là ngày không thể quên của người dân cả nước, và cả người dân ở Quảng Bình. Ngày Đại tướng về với đất mẹ thân yêu, cũng là ngày cả nước tiễn đưa vị anh hùng về nơi an nghỉ cuối cùng. Từ sáng sớm, hàng vạn người dân đã tập trung về sân bay Đồng Hới và dọc hai bên đường để chờ đón thời khắc linh cữu của Đại tướng về đến sân bay và được tiễn đưa người về nơi an nghỉ cuối cùng tại Vũng Chùa – Đảo Yến. Ai cũng lóng ngóng, hồi hộp, xúc động đến nghẹn lòng trước giây phút thiêng liêng. Mỗi khi nghe tiếng máy bay trên bầu trời là hàng vạn người dân hồi hộp đứng dậy vì cứ tưởng là máy bay chở Bác đáp xuống. Giữa trưa nắng, người dân vẫn đứng kín trên quãng đường dài hơn 60 km từ Đồng Hới đến Vũng Chùa (Quảng Trạch). Khi linh xa chở Đại tướng đi qua, dòng người lại câm lặng, bật khóc nức nở. Chưa bao giờ, lòng người lại hướng về Đại tướng một cách trìu mến và xúc động như lúc này.



Trong dòng người và xe cộ đông đúc, có lúc giao thông bị tắc nghẽn hơn cả tiếng đồng hồ, phải nhích lên từng chút nhưng ai cũng nhường đường để đoàn xe hộ tống và linh xa chở Đại tướng đi đến điểm an táng đúng giờ.

Con đường dẫn lên núi Thọ, mũi Rồng – nơi Đại tướng an nghỉ cũng đông nghịt người đưa tiễn. Hàng ngàn người đã đợi sẵn ở đây từ hôm trước để tiễn biệt Người. Và thời khắc Ban tổ chức Quốc tang làm lễ hạ huyệt Đại tướng, hàng triệu người đã bật khóc nức nở. Những người không được trực tiếp chứng kiến Lễ an táng Đại tướng cũng khóc qua màn hình ti vi. Nước mắt tiếc thương vị anh hùng của dân tộc đã bao trùm lên khắp đất nước.




Từ đây, Đại tướng đã thực sự hòa vào lòng đất mẹ, quê hương. Núi Thọ - mũi Rồng và cả vùng đất cực Bắc tỉnh Quảng Bình từ nay sẽ ôm ấp giấc ngủ ngàn thu của Đại tướng nơi chín suối. Giờ phút ấy, hàng triệu người đều chắp tay cầu mong cho anh linh Đại tướng được bình an. Trong niềm tiếc thương vô hạn, ai cũng phải chấp nhận một sự thật đau đớn đến nghẹn lòng.

Vĩnh biệt vị Đại tướng kính yêu, người con ưu tú của quê hương Quảng Bình và cả dân tộc Việt Nam. Công ơn của Người sẽ được các thế hệ sau trân trọng, gìn giữ và đời đời ghi nhớ.