Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

Quảng Trị: Thượng cờ đầu cầu Hiền Lương



Lễ thượng cờ đầu cầu Hiền Lương.  
 
NDĐT- Sáng nay, 30-4, tại Khu Di tích đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, tỉnh Quảng Trị long trọng tổ chức lễ Thượng cờ nhân kỷ niệm 37 năm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và 40 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị (1-5-1972 - 1-5-2012).
Đến dự có đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng, Trưởng Ban tuyên giáo TƯ; đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố trong cả nước; lãnh đạo tỉnh Quảng Trị qua các thời kỳ; các tướng lĩnh và cựu chiến binh tham gia chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị năm xưa cùng đông đảo nhân dân trên địa bàn.
Diễn văn buổi lễ do đồng chí Nguyễn Đức Cường, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị trình bày đã ôn lại truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường của quân và dân ta trong hơn hai mươi năm chống Mỹ cứu nước; ý nghĩa của lá cờ Tổ quốc tung bay trên bầu trời và khát vọng thống nhất non sông. Lễ Thượng cờ được tổ chức trang nghiêm tại Kỳ đài lịch sử mà suốt 20 năm quân và dân cả nước đã bảo vệ lá cờ như bảo vệ chính trái tim Tổ quốc. Lá cờ Tổ quốc trên đỉnh cột cờ Hiền Lương lịch sử thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào của dân tộc, là niềm tin, ý chí và sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, là màu son rực rỡ của lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong không khí trang nghiêm lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên trên đỉnh cột cờ Hiền Lương mở đầu cho các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao chào mừng Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và Ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị.
Tại buổi lễ, dưới chân Kỳ đài lịch sử đầu cầu Hiền Lương, lãnh đạo thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã tặng tỉnh Quảng Trị biểu tượng Khuê Văn Các và di tích Bến Nhà Rồng.
Nhân dịp này, đồng chí Đinh Thế Huynh đã đến thăm Đảng bộ và nhân dân huyện Vĩnh Linh, hai xã Triệu An và Triệu Trạch, huyện Triệu Phong; dâng hương, dâng hoa tại Nhà lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn, ở xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong; đài tưởng niệm các Nghĩa trang liệt sĩ xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, huyện Vĩnh Linh, thị xã Quảng Trị, Thành Cổ Quảng Trị và thả hoa trên dòng sông Thạch Hãn để tưởng nhớ các Anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến đấu và hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc trong chiến dịch bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị 81 ngày đêm năm 1972.
(Nguồn Nhân dân)

Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

Toàn cảnh Đại thắng mùa xuân 1975

Từ chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chiến dịch Xuân Lộc, chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là lớp lớp những chiến công oai hùng làm nên Đại thắng mùa xuân 1975 để Tổ quốc ta thống nhất, Nam Bắc một nhà. Sự kiện này được giới sử học trong và ngoài nước đánh giá là một trong những sự kiện quân sự nổi bật nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX. Nhân dịp 37 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, xin giới thiệu cùng bạn đọc.

Kỳ 1: Quyết định lịch sử

Ngày 9-1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp đánh giá tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường; đồng thời, đề ra nhiệm vụ quân sự mùa xuân 1975, thực hiện một bước kế hoạch tác chiến chiến lược. Quân ủy Trung ương xác định trong mùa khô 1974-1975, hướng tiến công chủ yếu của ta là Tây Nguyên và bổ sung nhiệm vụ cụ thể của chiến dịch Tây Nguyên là: Phải tiêu diệt 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp; nhiều tiểu đoàn bảo an, trung đội dân vệ, cố gắng đánh quỵ hoặc tiêu diệt 1 sư đoàn, đánh thiệt hại Quân đoàn 2 của ngụy Sài Gòn. Giải phóng một phần tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức gồm 3 thị xã Cheo Reo, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột. Trọng điểm là tỉnh Đắc Lắc, mục tiêu then chốt là Buôn Ma Thuột, mục tiêu quan trọng là 3 quận lỵ: Đức Lập, Thuần Mẫn, Kiến Đức. Hướng Cheo Reo, Gia Nghĩa là hướng phát triển chủ yếu.
Ngày 5-2, Bộ Chính trị cử đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng vào chiến trường Tây Nguyên làm đại diện của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh bên cạnh Bộ Chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Đồng thời đọc Quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Trung tướng Hoàng Minh Thảo được bổ nhiệm Tư lệnh mặt trận; Đại tá Đặng Vũ Hiệp: Chính ủy; Thiếu tướng Vũ Lăng, Đại tá Phan Hàm, Đại tá Nguyễn Năng, Đại tá Nguyễn Lang: Phó Tư lệnh; Đại tá Phí Triệu Hàm: Phó Chính ủy. Thường vụ Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San, Ủy viên Thường vụ Khu ủy cùng một số cán bộ đại diện các ngành bên cạnh Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch để trực tiếp chỉ đạo 3 tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc huy động mọi khả năng hiện có của địa phương phục vụ mặt trận. Cùng trong tháng 2, Quân ủy Trung ương Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 232 (tương đương Quân đoàn) tại Nam Bộ. Trong Đoàn 232 gồm có 2 Sư đoàn bộ binh số 3 và số 5, Lữ đoàn pháo binh 232, Trung đoàn công binh 32 và một số đơn vị trực thuộc khác. (Khi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 26-30/4, Đoàn 232 được tăng cường Sư 9 của Quân đoàn 4, tấn công hướng Tây và Tây Nam Sài Gòn). Đồng chí Nguyễn Minh Châu được bổ nhiệm Tư lệnh; đồng chí Trần Văn Phác được bổ nhiệm Chính ủy.
 
 Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975.
Chiến dịch Tây Nguyên nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch (khoảng 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, 1 đến 2 thiết đoàn thiết giáp) giải phóng các tỉnh Nam Tây Nguyên, tạo thế chia cắt chiến lược thực hiện chiến lược giải phóng miền Nam (1975-1976). Khu vực Nam Tây Nguyên gồm các tỉnh Phú Bổn, Đắc Lắc, Quảng Đức, địch có Sư đoàn bộ binh 23, Lữ đoàn dù 3, Trung đoàn bộ binh 40, 8 liên đoàn biệt động quân, Lữ đoàn tăng thiết giáp số 2, 30 tiểu đoàn bảo an và các đơn vị binh chủng chuyên môn kỹ thuật, bố trí thành thế phòng ngự hoàn chỉnh.
Về phía lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm 5 Sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 Trung đoàn bộ binh (25, 271, 95A, 95B), Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn xe tăng - thiết giáp 273 và một số đơn vị binh chủng chuyên môn kỹ thuật. Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm: Tư lệnh, Trung tướng Hoàng Minh Thảo; Chính ủy Đặng Vũ Hiệp.
Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh thu hút địch lên hướng Pleiku, từ ngày 4-3, ta bước vào tạo thế cắt đường 19, 21 (chia cắt chiến lược Tây Nguyên với đồng bằng); cắt đường 14 (chia cắt chiến dịch Bắc với Nam Tây Nguyên), tập kích bằng đặc công và hỏa lực pháo binh vào Kon Tum. Ngày 8-3, ta đánh quân lỵ Thuần Mẫu; ngày 10-3 diệt vị trí Đức Lập, cô lập triệt để Buôn Ma Thuột (mục tiêu then chốt chủ yếu). Địch phải đổ bộ đường không xuống Phước An để phản kích; bị Sư đoàn 10, Trung đoàn 25 đánh từ ngày 4 đến 18-3, Sư đoàn 23 (thiếu) và Liên đoàn biệt động quân 21 của địch bị tiêu diệt.
Để bảo toàn lực lượng còn lại của Quân đoàn 2, địch phải bỏ Bắc Tây Nguyên rút chạy về đồng bằng theo đường số 7 liên tỉnh. Sư đoàn 320 truy kích địch từ ngày 17 đến 23-3, đánh thiệt hại nặng 1 trung đoàn bộ binh, 6 liên đoàn biệt động, 4 thiết đoàn..., giải phóng Cheo Reo, Cung Sơn. Đồng thời từ ngày 18 đến 24-3, Sư đoàn 968, Trung đoàn 95A và Trung đoàn 271 giải phóng thị xã Kon Tum, Pleiku, Gia Nghĩa. Từ ngày 2-3 đến 3-4-1975, các đơn vị của ta tiếp tục phát triển xuống duyên hải miền Trung Bộ diệt Lữ đoàn dù số 3, Trung đoàn bộ binh 40, Liên đoàn biệt động quân 24 của địch; cùng với lực lượng tại chỗ giải phóng Bình Khê, Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh.
Kết thúc chiến dịch, ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 - Quân khu 2 và một số bộ phận lực lượng cơ động chiến lược của địch, giải phóng Tây Nguyên và các tỉnh miền Nam Trung Bộ. Chiến dịch Tây Nguyên thể hiện nghệ thuật cao về chọn hướng (mục tiêu), nghi binh, tạo thế (cắt, vây), tập trung lực lượng giành và giữ quyền chủ động, phát triển tiến công; mở ra một bước ngoặt đưa cuộc chiến tranh từ tiến công có ý nghĩa chiến lược đến Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
Ngày 15-3, Bộ Tổng tham mưu ngụy Sài Gòn quyết định đưa Liên đoàn 14 biệt động quân từ Quảng Ngãi ra Quảng Trị thay thế Lữ đoàn 369 và đưa Lữ đoàn 258 lính thủy đánh bộ vào bảo vệ Quảng Nam - Đà Nẵng để rút Sư đoàn dù về bảo vệ Sài Gòn. Cuộc điều quân bố trí lại lực lượng này càng làm cho địch lâm vào thế bị đập tan vỡ.
Ngày 18-3, Bộ Chính trị họp nhận định: Thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của ta đánh dấu một bước rất mới trong cục diện chung, một bước suy sụp của Mỹ - ngụy. Địch đang thực hiện co cụm chiến lược, có thể co cụm ở Đà Nẵng và Cam Ranh… Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành giải phóng miền Nam trong năm 1975; nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng tiêu diệt Quân đoàn I của địch, không cho chúng rút về Sài Gòn, giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ.
Ngày 21-3, chiến dịch Huế - Đà Nẵng được mở ra, nhằm tiêu diệt tập đoàn quân phòng ngự mạnh của quân ngụy ở Trị - Thiên, Huế, Đà Nẵng, giải phóng các tỉnh miền Trung; Bộ Quốc phòng mở chiến dịch tiến công các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Lực lượng địch trên địa bàn chiến dịch có Quân đoàn I - Quân khu 1; có 6 sư đoàn (2 sư đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị, 4 sư đoàn biệt động quân); 24 tiểu đoàn và l0 đại đội bảo an, 21 tiểu đoàn pháo binh (418 khẩu), 4 thiết đoàn và 10 chi đoàn tăng - thiết giáp (trên 400 xe), 165 tàu hải quân, 1 sư đoàn không quân (96 máy bay chiến đấu) được bố trí thành 2 khu vực phòng ngự vững chắc: Bắc đèo Hải Vân (Trị - Thiên) và Nam đèo Hải Vân (Đà Nẵng - Quảng Ngãi).
Chiến dịch này do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Đồng chí Trung tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh; Thượng tướng Chu Huy Mân làm Chính ủy. Chiến dịch thực hiện làm 2 đợt. Đợt 1, tác chiến từ ngày 21 đến 25-3 tiến công bao vây, chia cắt chiến lược, giải phóng Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên, Quảng Ngãi. Đợt 2, tác chiến từ ngày 26 đến 29-3, ta tiến hành tổng công kích vào Đà Nẵng.
Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 120.000 tên địch, làm tan rã 130.000 phòng vệ dân sự, tiêu diệt và làm tan rã 3 sư đoàn bộ binh (Quân đoàn 1), sư đoàn thủy quân lục chiến (tổng dự bị), 4 liên đoàn biệt động quân, 4 thiết đoàn, 1 sư đoàn không quân; giải phóng 5 tỉnh (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi). Thắng lợi của chiến dịch này có ý nghĩa chiến lược quan trọng làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược hoàn toàn có lợi cho ta, trực tiếp đập tan ý đồ co cụm chiến lược của địch, tạo điều kiện cho quân ta đẩy mạnh tốc độ tiến công giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam.
Ngày 25-3, Bộ Chính trị đã họp nhận định: "Thời cơ chiến lược lớn đã tới. Trong suốt 20 năm chống Mỹ, cứu nước chưa bao giờ thuận lợi như lúc này"; do đó, cần "Nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo bất ngờ, làm cho địch không dự kiến kịp và không kịp trở tay". Bộ Chính trị quyết định "Quyết tâm hoàn thành giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa" (tháng 5 -1975). Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 241/NQ-TW thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương do đồng chí Phạm Văn Đồng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch. Các đồng chí Lê Thanh Nghị, ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng; Phan Trọng Tuệ, Bộ trưởng Bộ Giao thông, Vận tải làm Phó Chủ tịch. Bộ Tổng Tham mưu cũng quyết định điều động một bộ phận lớn Quân đoàn I vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Sư đoàn 308 làm nhiệm vụ dự bị chiến lược của Bộ và bảo vệ miền Bắc.
Ngày 26-3, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 54/QĐ-QP thành lập Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) tại căn cứ Tây Nguyên. Trong Quân đoàn gồm có: 3 Sư đoàn bộ binh số 10, 316, 320A; 2 Trung đoàn pháo binh 40 và 675; 3 Trung đoàn phòng không số 232, 234, 593; Trung đoàn đặc công 198; Trung đoàn xe tăng 273; 2 Trung đoàn bộ binh số 7 và 575; Trung đoàn thông tin 29 và các cơ quan, đơn vị đảm bảo, phục vụ. Tư lệnh Quân đoàn: Thiếu tướng Vũ Lăng; Chính ủy Quân đoàn: Đại tá Đặng Vũ Hiệp.
Cũng trong ngày này, hơn 2.000 binh sĩ ngụy thuộc trung tâm huấn luyện Hòa Cầm làm binh biến, nhiều đơn vị địch rời bỏ trận địa tiền tiêu rút về phía sau. Tiếp đó, cả 3 lữ đoàn của sư đoàn thủy quân lục chiến ngụy đều bỏ vị trí chiến đấu (Lữ đoàn 148 rút về Phú Lộc, Lữ đoàn 258 bỏ về sân bay Nước Mặn, Lữ đoàn 369 chạy về Hiếu Đức), Trung đoàn 57 (Sư đoàn 3) chạy về Hòa Cầm. Trung tướng ngụy Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu I vội vàng chạy ra bán đảo Sơn Trà lên tàu chiến Mỹ trốn vào Sài Gòn.
Ngày 31-3, Bộ Chính trị họp nhận định: Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ chiến lược để tiến hành Tổng tiến công vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. Bộ Chính trị quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4, không thể để chậm. Phải gấp rút tăng cường lực lượng vào hướng Tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn đường số 4, áp sát Sài Gòn; đồng thời, nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng Đông và Đông Nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu. Tổ chức sẵn sàng những đơn vị binh chủng hợp thành mạnh để khi thời cơ xuất hiện, thì tức khắc hành quân chiếm các mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm thành phố.
Tư tưởng chỉ đạo: Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.
(Kỳ 2: Trận đánh quyết định)
Nhóm BS lịch sử (Theo Việt Nam thế kỷ XX) 
Nguồn Báo Biên phòng

Nhật ký gia đình tôi:


Dân miền Trung - Kỳ 1: Tôi, ba tôi, mẹ tôi…


Ngày tôi sinh…
Tôi được mẹ sinh ra vào một ngày nắng nóng tháng Tư, ngày đó với tôi có ý nghĩa rất lớn. Ý nghĩa vì tôi được sinh đúng vào một ngày lễ trọng đại của dân tộc, kỷ niệm 12 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đó cũng là niềm tự hào của riêng cá nhân tôi bởi vì ngày sinh đó thật dễ nhớ, lại trúng vào một ngày lịch sử của đất nước.
Mặc dù tôi không nhớ rõ về ngày ấy, nhưng qua lời kể của ba, mẹ tôi thì thời ấy cuộc sống vất vả vô cùng. Hơn nữa, khi mẹ sinh tôi là thời điểm gia đình rất khó khăn, một mình mẹ tôi “vượt cạn” trong hoàn cảnh thiếu tình thương và sự chăm sóc của ba tôi. Gia đình nội ngoại đều ở xa, ông bà nội tôi mất sớm, lúc ba tôi đang còn nhỏ. Cho đến bây giờ ba tôi cũng không nhớ nổi mặt ông bà nội.
Thời điểm ấy ba tôi công tác xa nhà, may mắn lắm thì đôi ba tháng mới về phép được 1-2 ngày, sau đó lại tất bật với công việc. Suốt thời gian ba đi bộ đội, một mình mẹ phải chăm sóc cho 2 đứa con. Cuộc sống thiếu thốn đến cơm cũng không đủ ăn, có lúc 3 mẹ con phải chạy sang nhờ ông bà ngoại, thậm chí nhờ hàng xóm. Mang tiếng là cán bộ vũ trang của huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng (tôi nghe ba kể hồi đó ba là huyện phó Công an vũ trang nay là Bộ đội biên phòng chứ lớn lên được học hành nhưng tôi cũng không hiểu cái chức huyện Phó ấy là gì) nhưng vợ con thì nhịn đói nhịn khát không biết lấy gì để sống qua ngày.
Tôi sinh ra được 2 năm thì ba tôi chuyển công tác về tỉnh Quảng Bình nên từ đó cũng có điều kiện chăm sóc mẹ con chúng tôi nhiều hơn trước. Tôi may mắn hơn anh chị của tôi, bởi ngoài sự yêu thương chăm sóc của ông bà ngoại thì còn có ba tôi. Hơn nữa cuộc sống lúc ấy cũng đỡ khó khăn hơn trước. Có lẽ trong 4 người con của ba mẹ thì tôi và đứa em gái được ba gần gũi chăm sóc nhiều nhất. Chính vì vậy mẹ tôi cũng đỡ vất vả hơn trước rất nhiều.
Ngày mẹ sinh tôi ra có một kỷ niệm rất đáng nhớ, thực ra cũng không có gì lớn lắm nhưng với mẹ tôi đó là một kỷ niệm vui, đến bây giờ mẹ vẫn nhắc lại cho tôi nghe: “Nhờ mi mà mẹ được ba tặng bộ quần áo nhung, trước đó thì mẹ không nhận được món quà từ ba tôi như thế bao giờ”. Nghe thì buồn cười nhưng đó là sự thật, nhờ nó mà tôi hiểu được cuộc sống thời ấy nó khó khăn đến mức nào. Qủa là lúc mẹ tôi mang thai tôi, ba được về nghỉ phép và hứa rằng nếu mẹ sinh con trai thì ba sẽ tặng một bộ quần áo nhung gấm. Đến sau khi sinh, mẹ mới viết thư cho ba và bảo rằng em đã sinh được thêm một cậu con trai, thế là ba phải mua tặng cho mẹ bộ quần áo như đã hứa trước đó.
Tôi sinh đúng vào rạng sáng ngày 30/4/1988, đến ngày 30/4/2012, vừa tròn 25 năm. Đúng vào thời điểm của cách đây 25 năm tôi mới có dịp để viết lại những dòng chữ này. Ngày 30/4/2012 cũng là ngày đất nước kỷ niệm 37 năm ngày đất nước thống nhất. 37 năm ấy đất nước Việt Nam đã có những bước phát triển mới trong xu thế hội nhập và phát triển.
Đến bây giờ tôi đã 25 tuổi nhưng vẫn chưa có nghề ngỗng chi, hết tháng 6 này tôi mới cầm tấm bằng ĐH và mới có thể bắt đầu kiếm tiền để tự nuôi sống bản thân. Từ đây cũng coi như chấm dứt nguồn viện trợ từ ba mẹ để bắt đầu cuộc sống tự lập.
Cuộc sống trước mắt đang đầy rẩy khó khăn và chông gai, không biết tôi có có đủ nghị lực để bước qua không đây?.

Đời lính của ba…
Ba tôi nhập ngũ năm 1972, hơn 10 năm tham gia huấn luyện, công tác tại nhiều nơi từ Quảng Bình vào tận Tp Hồ Chí Minh. Đặc biệt Thừa Thiên - Huế là nơi ba sống và công tác nhiều nhất từ Đồn biển Thuận An đến BCH tỉnh trước đây đóng tại đường Điện Biên Phủ bây giờ, sau mới chuyển lên đường Bùi Thị Xuân. Sau đó, ba được thuyên chuyển ra công tác tại huyện Trùng Khánh, Cao Bằng, phải mất 7 năm mới có điều kiện về BCH BĐBP tỉnh Quảng Bình.
Ba tôi công tác ở tỉnh gần được 2 năm thì có quyết định lên làm Đồn trưởng Đồn 601 – Làng Ho, thuộc xã Lâm Thủy, Lệ Thủy. Đây cũng là định mệnh và cũng là điểm dừng chân cuối cùng trong đời lính của ba tôi sau hơn 20 năm xa nhà. Tưởng đến công tác ở một địa điểm mới, gần nhà hơn thì không may đây là môi trường khiến ba ốm đến thập tử nhất sinh có khi phải chết đi sống lại. Hễ về Đồn là đau quằn quại, xe chở về tỉnh cấp cứu không kịp. Nhưng về tới bệnh viện khám thì không có vấn đề gì, cứ thế về đơn vị lại đau. Cũng có lúc xe chở ra tận Hà Nội cũng không thể phát hiện ra bệnh gì. Những lúc ấy gia đình đã vất vả lại thêm khốn đốn hơn.
Sau đó một thời gian không lâu, ba tôi được đơn vị cho nghỉ hưu trước tuổi. Sau hơn 20 năm xa nhà nay trở về đoàn tụ cùng vợ con, gia đình. Lúc nghỉ hưu căn bệnh “sốt rét rừng” bấy lâu trong cơ thể ba tái phát. Mẹ tôi lại một lần nữa vừa chăm sóc bệnh cho chồng vừa nuôi mấy đứa con còn nhỏ, vất vả trăm bề nhưng mẹ vẫn giỏi chịu đựng. Ddến bây giờ nghĩ lại mẹ vẫn thấy rùng mình.
Nhớ lại những trận ốm ngày xưa ba vẫn cảm thấy ớn, quả là hồi đó sợ mình không qua khỏi. Được đơn vị cho nghỉ hưu sớm ba định xin lĩnh phụ cấp lương hưu một lần (lúc ấy nghe ba kể gần 20 triệu gì đó) về xây cho mẹ con một căn nhà nhỏ mà có chỗ che mưa che nắng, lỡ ba có chết đi cũng yên tâm phần nào. Nhưng suy nghĩ của ba nói ra liền bị mẹ phản đối kịch liệt, không thuyết phục được mẹ đi nhờ ông bà ngoại, các bác, các cô khuyên giùm. Sau đó thuyết phục mãi không được mẹ cương quyết: “Bấy lâu nay ko có anh chu cấp, em vẫn tự chăm sóc cho mình mà nuôi con bình thường. Thà nhận mỗi tháng lúc đó chỉ 200.000đ nhưng cũng có cái để gia đình sống qua ngày chứ nhận một lần tiêu dùng cũng hết, lúc đó lấy chi mà nuôi con”. Những lời nói của mẹ khiến ba suy nghĩ lại, đành phó mặc cho trời đất. Cũng may lúc ấy ba nhận một lần thì bây giờ cuộc sống gia đình sẽ chật vật hơn nhiều. Chúng tôi cũng không có  điều kiện học tập đến hôm nay.

Cuộc sống của mẹ…
Có lẽ mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn và đáng cay nhất, nỗi khổ của mẹ không biết lấy gì tả cho nỗi. Mà không những trước kia đâu, ngay đến bây giờ cũng vậy. Hết chăm sóc cho chồng đến nuôi con đến hao mòn. Bây giờ mẹ bệnh tật triền miên, mỗi khi trái gió trở trời nhìn mẹ đau đớn mà thấy thương và tội nghiệp vô cùng.
Ngày ấy mẹ đồng ý và làm lễ cưới với ba nhưng chẳng hề thấy mặt bao giờ. Nói quá một chút nhưng sự thật thì mẹ với ba ko có yêu đương gì hết, mọi việc đều do bác và ông ngoại sắp đặt. Đến lúc cưới ba mới về được 1 ngày rồi lại đi biền biệt. Suốt thời gian ấy mẹ chịu bao khổ cực mà không biết tâm sự với ai. Tưởng có cồng để được dựa dẫm đôi chút nhưng với mẹ tôi thì chưa hề có chuyện đó. Một mình mẹ tự bươn chải trong cuộc sống, khi sinh con lại tự nuôi con. Cuộc sống khó khăn phải chạy vạy đủ đường, rồi anh em chẳng ai quan tâm, thậm chí còn mang tiếng xấu. Vất vả thế nên tinh thần mẹ chẳng bao giờ được thanh thản.
Có lúc ốm đau ko biết nhờ cậy vào ai. Cũng may ông bà ngoại còn sống để nhờ cậy, nếu không thì không biết cuộc sống của mẹ sẽ ra sao.
Trong khi cuộc sống của ba an nhàn, có lính cơm bưng, nước rót, đi về có xe đưa xe đón thì mẹ ở nhà phải chạy ăn từng bữa. Đã không lo được gì cho vợ vậy mà những khi về phép nghe những lời bàn tán từ họ hàng bên nội lại dằn vặt vợ con. Đến sau này mới hiểu ra sự việc mới hối hận.
Sau khi ba về lại ốm đau, vậy là một mình mẹ tôi phải chăm sóc thuốc thang cho cả chồng lẫn con. Vất vả khổ cực đến thế nhưng mẹ chưa bao giờ than thở điều chi. Nhưng tôi biết mẹ đã hy sinh rất lớn để nuôi nắng chăm sóc cho gia đình, cho mấy anh em tôi khôn lớn nên người. Bây giờ, chúng tôi đã khôn lớn, anh chị tôi đã có gia đình nhưng ba mẹ tôi vẫn khổ cực lắm. Gần 60 tuổi nhưng ba mẹ vẫn hết sức vất vả. Tôi hiểu sự vất vả ấy của ba mẹ, nhưng không biết chúng tôi có đền đáp được chút nào không, và đền đáp kiểu chi đây. Hay cứ níu lấy ông bà đến chừng nào ông bà kiệt sức thì thôi.
Nhưng tôi sẽ cố gắng để không có chuyện đó xảy ra, xin ba mẹ hãy đặt niềm tin vào con như trước đây đã từng như vậy ba mẹ nhé.

Kỳ 2: Anh trai, chị gái, em gái tôi

HƯỚNG VỀ BIỂN ĐÔNG





Biển Đông: Điểm nóng của các cường quốc

 
(VnMedia) - Trung Quốc đã thất bại trong việc ngăn không cho các cường quốc khác dính líu hay can thiệp gì vào cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông bất chấp những nỗ lực không mệt mỏi của nước này.

Trung Quốc hiện đang có tranh chấp ở khu vực Biển Đông với một loạt nước và vùng lãnh thổ. Biển Đông là khu vực giàu dầu mỏ, khí đốt và là nơi có nhiều tuyến đường hàng hải quan trọng. Chính vì thế, các cuộc tranh chấp chủ quyền ở khu vực này luôn diễn ra quyết liệt và nóng bỏng.

Bắc Kinh luôn khẳng định muốn giải quyết những cuộc tranh chấp này trong khuôn khổ song phương. Tuy nhiên, có vẻ như mong muốn này khó mà thực hiện được khi giờ đây Mỹ đã không còn ngại đối đầu với Trung Quốc ở Biển Đông. Washington gần đây đã có nhiều động thái can thiệp trực tiếp vào những cuộc tranh chấp ở khu vực thay vì chỉ gián tiếp mập mờ như trước đây.

Mỹ chắc chắn là cường quốc mà Trung Quốc muốn ngăn không cho tiếp cận vào vấn đề Biển Đông nhất. Tuy nhiên, trong thời gian qua, cường quốc số 1 thế giới đã từng bước “dính líu” sâu hơn vào những tranh chấp ở khu vực biển giàu tài nguyên này.

Ban đầu, Mỹ chỉ đưa ra những tuyên bố đầy tính ám chỉ về việc sẽ đứng về phía Manila trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh. Tuy nhiên, kể từ sau khi xảy ra vụ va chạm tàu thuyền quyết liệt giữa Philippine và Trung Quốc ở Biển Đông hôm 8/4 vừa rồi, Washington đã có nhiều bước đi và động thái mạnh mẽ hơn và công khai hơn.

Mỹ đã đưa hàng nghìn quân và hàng loạt tàu chiến đến vùng tranh chấp của Philippine để tập trận cùng với nước đồng minh của mình đúng thời điểm Trung Quốc và Philippine đang có cuộc đối đầu căng thẳng vì tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Dù cả Manila và Washington đều khẳng định cuộc tập trận này không liên quan gì đến Trung Quốc nhưng việc hai nước tiến hành các cuộc diễn tập tái chiếm đảo, tái chiếm dàn khoan không thể không khiến Bắc Kinh lo ngại và bất an.

Nhiều người lo ngại, vùng lãnh hải mà Trung Quốc coi là sân sau của họ sẽ sớm trở thành sân chơi mới của hai cường quốc hàng đầu thế giới và rất có thể sẽ trở thành một vùng chiến mới.

Một nhà nghiên cứu cấp cao thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore đã gọi Biển Đông là “điểm nóng tiềm năng”, nơi sẽ có sự cạnh tranh gay gắt giữa các siêu cường quốc hàng đầu thế giới.

Các siêu cường thế giới đều thèm muốn được kiểm soát vùng biển giàu tài nguyên và có nhiều tuyến đường hàng hải quan trọng này. 1/3 giao thương của thế giới được cho là đi qua những tuyến đường ở Biển Đông.

“Khi căng thẳng tiếp tục ‘sôi’ lên ở Biển Đông và hàng loạt tàu chiến kéo đến khu vực thì tôi nghĩ rằng, việc xảy ra một cuộc xung đột trên biển gây thương vong chỉ còn là vấn đề thời gian”, nhà nghiên cứu trên đã nhận định như vậy.

Không cường quốc nào muốn Trung Quốc tự do chiếm lĩnh một khu vực hàng hải quý giá như Biển Đông. Và những cường quốc này có được sự ủng hộ của các nước đang có tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc. Một số nước có tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông với Trung Quốc đang tìm cách “quốc tế hóa” những cuộc tranh chấp này. Đây là điều Bắc Kinh rất sợ. Trong cuộc đối đầu hiện nay giữa Philipine và Trung Quốc, Manila đã liên tục yêu cầu đưa cuộc tranh chấp của họ với Bắc Kinh ra tòa án quốc tế để giải quyết nhưng Bắc Kinh kiên quyết phản đối điều này.

Philippine rõ ràng rất muốn kéo Mỹ vào vấn đề Biển Đông. Sự đối đầu của hai cường quốc ở đây chắc chắn sẽ có lợi cho Philippine. Điều này lý giải tại sao Manila trở lên mạnh bạo hơn trong cuộc đối đầu mới nhất với Bắc Kinh.

Bất chấp những lời đe dọa, cảnh báo đầy sắc lạnh của giới lãnh đạo dân sự cũng như quân sự Trung Quốc, Philippine kiên quyết không chịu lùi bước. Nước này thậm chí còn đưa cả tàu chiến lớn nhất của mình ra đối đầu với tàu chiến của Trung Quốc. Manila tin rằng, với sự có mặt của một cường quốc quân sự mạnh như Mỹ, Bắc Kinh cũng phải e dè khi có bất kỳ động thái cứng rắn nào.

Tuy nhiên, Philippine và Trung Quốc được cho là sẽ tiếp tục đối đầu nhau trong thế giằng co, kéo dài. Như vậy, Biển Đông được dự báo sẽ là một điểm nóng của thế giới trong thời gian tới và khu vực biển này sẽ còn nhiều lần “dậy sóng”.
Nguồn VnMedia

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 37 NĂM GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM (30/4/1975 - 30/4/2012) VÀ 40 NĂM GIẢI PHÓNG TỈNH QUẢNG TRỊ

  Trong những ngày tháng Tư lịch sử, cả nước ta đang sống lại những năm tháng lịch sử hào hùng của một thuở cả đất nước cùng ra trận. Nhân dân ta với sự đoàn kết, đồng lòng cùng chung sức chiến đấu và đã đánh đổ đế quốc Mỹ xâm lược, lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm thống nhất nước nhà. Đất nước ta từ sau đổi mới đã có bước phát triển vượt bậc, đang trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa để xay dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, đời sống nhân dân ngày càng ấm no. 37 năm trôi qua, đất nước ta đang có sự phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực.
 
*-*-*
40 năm chiến thắng Quảng Trị

Bộ đội ta vào giải phóng Quảng Trị.                                                                     ( Ảnh: Ảnh tư liệu )
 
Từ năm 1971, quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, nhằm "Giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược năm 1972", Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết "Ðẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng ở miền nam"; "Tranh thủ thời gian, khắc phục khó khăn, nhược điểm, xây dựng thế và lực của ta trên chiến trường lên nhanh hơn nữa, kịp thời nắm lấy thời cơ...".
Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ dự định tiến công trên ba hướng: Miền Ðông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị Thiên. Trong đó, hướng Trị Thiên được Bộ xác định là hướng tiến công chiến lược chủ yếu của bộ đội chủ lực năm 1972, nhằm tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự của địch ở Trị Thiên, giải phóng phần lớn địa bàn Trị Thiên.
Cuối tháng 3-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch do đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh; đồng chí Lê Quang Ðạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy. Ðồng chí Văn Tiến Dũng được Bộ chỉ định làm đại diện Quân ủy Trung ương ở hướng chiến dịch này. Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm trong thời gian từ 20 đến 25 ngày tiến công tiêu diệt cho được bốn đến năm trung đoàn địch và thực hiện nổi dậy giải phóng Quảng Trị, sau đó phát triển vào hướng Trị Thiên Huế. Ðây là một chiến dịch tập trung lực lượng lớn, tác chiến hiệp đồng binh chủng, diễn ra trên một không gian rộng, với thời gian tương đối dài.
Quảng Trị là nơi đối đầu lịch sử, gồm những căn cứ quân sự mạnh nhất của địch, ở ngay vùng giới tuyến quân sự được chọn làm mục tiêu tiến công trong giai đoạn đầu của chiến dịch. Trong đó, lực lượng địch ở đây gồm có: hai sư đoàn bộ binh tăng cường, bốn tiểu đoàn và 94 đại đội bảo an, năm đại đội pháo binh (gồm 258 khẩu pháo), ba thiết đoàn xe tăng và thiết giáp. Trên tuyến phòng thủ cơ bản, địch chiếm các cao điểm từ Cồn Tiên Dốc Miếu, Ðộng Toàn, Ðộng ông Do, điểm cao 367, hình thành một hệ thống vành đai phòng thủ vững chắc, bao bọc lấy vùng đồng bằng và các thị xã, thị trấn. Lực lượng ta trong chiến dịch này, giai đoạn đầu, Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng ba sư đoàn bộ binh cơ động chiến lược, một số trung đoàn độc lập địa phương và một bộ phận lớn các binh chủng kỹ thuật. Cụ thể, Sư đoàn 308 tiến công quân địch trên hướng bắc, Sư đoàn 324 tiến công quân địch ở bắc và nam sông Quảng Trị, Sư đoàn 304 tiến công theo hướng phòng thủ phía tây của địch. Hướng tây Quảng Trị được Bộ Tư lệnh chọn là hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch. Lực lượng của địch ở hướng này gồm: Trung đoàn 56 ở cao điểm Ba Hồ, Ðầu Mầu, sở chỉ huy của địch ở điểm cao 241 và lữ đoàn lính thủy đánh bộ ngụy ở cao điểm Ðộng Toàn, điểm cao 356, sở chỉ huy của chúng ở Mai Lộc.
Trong chiến dịch này, Sư đoàn 304 được tăng cường Trung đoàn Pháo binh 38, Trung đoàn Cao xạ 241, một đại đội xe tăng, một tiểu đoàn công binh, hai trung đội súng phun lửa và trinh sát hóa học. Sư đoàn có nhiệm vụ tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ phía tây, tiêu diệt địch ở Ðộng Toàn, Ba Hồ, Ðầu Mầu, núi Kiếm, bao vây tiến tới tiêu diệt địch ở cứ điểm 241, rồi tiến tới tiêu diệt sân bay Ái Tử. Theo nhận định của ta, trong quá trình tiến công vòng ngoài của địch, địch có thể tăng viện ra phía tây Quảng Trị từ một trung đoàn đến một sư đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn thiết giáp, ba tiểu đoàn pháo và 100 đến 150 tàu chiến, máy bay hoạt động trong ngày, ngoài ra có máy bay B52 sẵn sàng đối phó. Do nghiên cứu trinh sát tỉ mỉ ở phía sau lưng địch, trong khi pháo binh ta bắn chuẩn bị, Sư đoàn đã đưa ngay Trung đoàn 24 vào bao vây cao điểm 241. Nhờ vậy, khi ta nổ súng tiến công, quân địch bị bất ngờ và trở tay không kịp. Ðúng 11 giờ30 phút ngày 30-3-1972, toàn mặt trận nổ súng, một cơn bão lửa trút xuống các căn cứ Mỹ - ngụy dọc đường 9. Trên hướng tây, cùng 11 giờ 30 phút, các trận địa pháo của Trung đoàn 38 và Trung đoàn 68 cũng dội bão lửa xuống Ðộng Toàn, Ba Hồ, Ðầu Mầu, căn cứ Phú Lộc, điểm cao 241. Sau hai giờ chiến đấu, Trung đoàn 9 làm chủ Ðầu Mầu - một vị trí phòng thủ phía tây cao điểm 241. Sau nhiều lần tổ chức tiến công, đến 6 giờ sáng ngày 1-4, Trung đoàn 66 làm chủ Ðộng Toàn và Ba Hồ. Quân địch mệnh danh cho Ðộng Toàn là "con mắt thần" của hướng tây.
Vậy là trong hai ngày đầu của chiến dịch, Sư đoàn 304 cùng các đơn vị bạn đập tan một mảng vỏ cứng tuyến phòng thủ vòng ngoài phía tây Quảng Trị, đó là Ðộng Toàn, Ba Hồ, Ðầu Mầu, núi Kiếm.
Sáng 2-4, Nguyễn Văn Thiệu vội vã từ Sài Gòn ra Huế triệu tập các tư lệnh sư đoàn để đối phó với ta. Thiệu ra lệnh cho Ðại tướng Vũ Văn Giai và Hoàng Xuân Lãm không được bỏ một tấc đất và lệnh điều động thêm Sư đoàn lính thủy đánh bộ ra Trị Thiên. Trong khi đó, quân ta bao vây ép địch ở cao điểm 241. Ðúng 11 giờ 30 phút ngày 2-4-1972, tên trung tá trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 ngụy treo cờ trắng đầu hàng. Sau bốn ngày của chiến dịch, Sư đoàn 304 đã chiếm được các cứ điểm Ðầu Mầu, Ðộng Toàn, Ba Hồ, cao điểm 241 và Mai Lộc; đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ, bức hàng Trung đoàn 56 ngụy, diệt hai tiểu đoàn pháo, một lữ đoàn xe tăng, thiết giáp của thiết đoàn 11, thu 14 xe ô-tô, 50 pháo (trong đó có bốn khẩu 175mm), bắn rơi 18 máy bay các loại. Tuyến phòng thủ phía tây bắc Quảng Trị bị quân ta đập tan.
Ngày 4-4, Lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ điều từ Sài Gòn ra Mỹ Chánh, các liên đoàn biệt động 4, 5, 6 điều từ quân khu 2 tăng cường cho Ðông Hà - Quảng Trị. Ðịch cố thủ ở Ðông Hà, Ái Tử, Quảng Trị với quân số tương đương hai sư đoàn. Ðặc biệt, chúng tăng cường hoạt động không quân, có ngày tới 237 lần chiếc. Ngoài biển thường xuyên có bảy đến tám chiến hạm Mỹ bắn phá.
Từ ngày 6-4-1972, không quân Mỹ đánh phá miền bắc, lần đầu tiên chúng dùng máy bay B52 đánh phá thành phố, thị xã Vinh, Thanh Hóa, Hà Nội, Hải Phòng, phong tỏa cảng... Trước thực tế  trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận định: Ðịch tăng cường nhưng chưa được củng cố, tinh thần còn hoang mang. Ta đánh mạnh thì chúng sẽ tan vỡ nhanh. Ðể tiến công tiêu diệt các cụm phòng ngự của địch, giải phóng hoàn toàn Quảng Trị. Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng Sư đoàn 308 tiến công tiêu diệt địch cụm Ðông Hà, Lai Phước. Sư đoàn 324 đánh địch ở La Vang, cắt giao thông trên quốc lộ 1, bắc cầu Mỹ Chánh - nam thị xã Quảng Trị. 15 giờ ngày 28-4, pháo binh ta bắt đầu bắn phá các tuyến phòng ngự, Sư đoàn 304 được phối thuộc Trung đoàn 48, Sư đoàn 390 tiến công vào Ái Tử, đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 3 ngụy, tên tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn phải trà trộn đám tàn quân chạy về Thành cổ Quảng Trị. Trung đoàn 66 vượt sông Mỹ Chánh đánh vào hậu phương quân địch tại thị xã Quảng Trị.
Trong lúc Sư đoàn 304 tiến công vào Ái Tử, Sư đoàn 308 tiến công quân địch ở Ðông Hà - Lai Phước tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch ở Quảng Trị; đến 15 giờ ngày 29-4, quân ta làm chủ hoàn toàn Ðông Hà. 9 giờ 30 phút ngày 1-5, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 đã cắm cờ chiến thắng lên Tòa hành chính thị xã Quảng Trị. Tỉnh Quảng Trị là tỉnh đầu tiên trên chiến trường miền nam được hoàn toàn giải phóng. Chiến trường Quảng Trị là sự phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường toàn miền nam. Thắng lợi của chiến dịch này có ý nghĩa lớn về mặt chiến lược, vì đó là tuyến đầu của Mỹ - ngụy, chúng lập lên hàng rào Mác-na-ma-ra hòng chặn đứng quân ta, không cho quân ta xâm nhập vào miền nam. Hàng rào đó đã bị quân ta đập vỡ tan tành.
Ðồng thời, cùng với 12 ngày đêm chiến thắng Ðiện Biên Phủ trên không tại Thủ đô Hà Nội, từ đó bọn địch phải ký kết Hiệp định Pa-ri, đó là một thất bại về chiến lược của Mỹ. Như vậy, quân và dân ta đã thực hiện được lời chúc Tết của Bác Hồ năm xưa là "Ðánh cho Mỹ cút......" và cũng từ đó Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra mắt với thế giới trên mảnh đất Ðông Hà - Quảng Trị để đón tiếp các đại sứ và khách nước ngoài.
Sau khi giải phóng tỉnh Quảng Trị, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm chiến trường và thăm Sư đoàn 304, Ðại tướng căn dặn "Sư đoàn là một trong những Sư đoàn thép của Quân đội nhân dân Việt Nam, Sư đoàn phải rèn luyện cho thật mạnh". Cũng trong năm 1973, Lãnh tụ Cu-ba Phi-đen Ca-xtơ-rô, nguyên thủ quốc gia đầu tiên đến thăm vùng giải phóng miền nam và Thủ tướng Phạm Văn Ðồng cùng đi. Trong buổi mít-tinh tại căn cứ 241, Chủ tịch Phi-đen Ca-xtơ-rô đã phất cao lá cờ giải phóng. Ðồng chí nói "Các đồng chí hãy đem lá cờ bách chiến, bách thắng này cắm vào sào huyệt cuối cùng của chính quyền ngụy Sài Gòn".
Hai năm sau đó, tức là ngày 30-4-1975, Sư đoàn 304 đã cắm lá cờ bách chiến, bách thắng đó trên nóc Dinh Ðộc Lập của chính quyền ngụy Sài Gòn vào lúc 11 giờ 30 phút.
Trung tướng NGUYỄN ÂN
Nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304

Hà Nội: hơn 1.000 người vây trụ sở xã đòi đất

Dân miền Trung - Trong giai đoạn vừa qua, ngày càng có nhiều người dân bức xúc trong vấn đề đất đai diễn ra tại các địa phương. Điều đó đặt ra cho chúng ta câu hỏi: Vì sao lại có nhiều người dân bức xúc về vấn đề đất đai đến như vây? Nhà nước đã có những chính sách, phương pháp nào để giải quyết thực trạng này hay chưa?
Như chúng ta đã biết, đô thị hóa sẽ góp phần làm cho đất nước này phát triển giàu mạnh hơn. Tuy nhiên, để thực hiện việc đô thị hóa bề vững cần phải có những phương sách, quy hoạch cụ thể. Đất đai là sở hữu của nhà nước, nhà nước có thể thu hồi bất cứ lúc nào để phục vụ cho sự phát triển. Nhưng bên cạnh đó phải đảm bảo cho người dân có thể ổn định được cuộc sống của mình. Rất nhiều vụ tranh chấp, thu hồi đất đai diễn ra trong thời gian qua là hồi chuông cảnh báo, đánh thức các cơ quan có thẩm quyền. Rất nhiều vụ như Tiên Lãng - Hải Phòng, Quảng Nam, bây giờ là Văn Giang, và rất nhiều địa phương khác...là những thông điệp gửi đến Quốc hội và Nhà nước. Một khi quyền lợi chính đáng, quyền được an cư của người dân bị ảnh hưởng họ sẻ phải lên tiếng để tự bảo vệ cho mình. Mặc dù biết rằng họ làm như vậy là trái pháp luật, nhưng Nhà nước cũng cần có biện pháp hợp lý giúp ổn định tâm lý và đời sống của người dân. Đừng để đến lúc vụ việc trở nên quá phức tạp sẽ không ổn cho sự quản lý và phát triển xã hội.

Dưới đây là một trong số những vụ liên quan đến vấn đề đất đai:
TT - Đến chiều 27-4, hơn 1.000 người dân xã Liên Hiệp (huyện Phúc Thọ, Hà Nội) vẫn tập trung tại trụ sở của UBND xã Liên Hiệp phản đối những sai phạm quản lý đất đai của chính quyền xã, đòi chính quyền trả lại đất.
Người dân tập trung trên quốc lộ 1A đoạn trước trụ sở UBND huyện Phù Mỹ, Bình Định phản đối doanh nghiệp chặt rừng phòng hộ - Ảnh: T.ĐĂNG
Trước đó sáng 26-4, rất đông người dân trên địa bàn xã Liên Hiệp kéo nhau về trụ sở UBND xã, mang theo băngrôn, khẩu hiệu có nội dung đề nghị chính quyền, cán bộ xã “trả lại ruộng đất”, thậm chí mang cả xoong nồi để nấu cháo ngay tại sân trụ sở ubnd xã. Lãnh đạo và cán bộ UBND xã Liên Hiệp phải lánh tạm đi nơi khác, bộ máy chính quyền xã tạm dừng hoạt động trong hai ngày 26 và 27-4.
Theo phản ảnh của người dân, một số lãnh đạo UBND xã Liên Hiệp và hai hợp tác xã trong xã (Đồng Hối và Hạ Hiệp) có những hành vi khuất tất, chiếm dụng một diện tích lớn đất đai của xã viên hợp tác xã để đấu thầu và mua bán bất chính. Ngoài ra, việc sản xuất mạ kẽm của một số cá nhân tại địa phương còn làm môi trường xung quanh bị ô nhiễm, khiến người dân bức xúc.
Chiều 27-4, trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Đình Thức, phó bí thư thường trực Huyện ủy Phúc Thọ, xác nhận sự việc. Ông Thức cho biết huyện đã thành lập đoàn thanh tra và đang làm rõ nội dung đơn thư khiếu nại của người dân. Ông Thức thông tin: ngay trong chiều 27-4, tổ thanh tra đã chính thức đối thoại với dân.
(Nguồn Tuổi trẻ)

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Từ chức, nếu không đủ phiếu tín nhiệm

Dân miền Trung - Đã đến lúc chúng ta nên nhìn thẳng vào sự thật về những hạn chế của ĐBQH để góp phần xây dựng cơ quan quyền lực thực sự của dân, do dân, vì dân. Để làm tốt và phát huy năng lực của ĐBQH với tư cách là đại diện người dân tham gia vào việc góp ý, xây dựng Đảng, Nhà nước ta thực sự vững mạnh cần rất nhiều yếu tố. Trên hết ĐBQH phải là người có trình độ năng lực thực sự, biết lắng nghe và bênh vực quyền lợi người dân, dám nhìn thẳng vào sự thật về những vấn đề sai trái, bất cập còn tồn tại liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của người đân. Đối với những vị ĐBQH nếu không hoàn thành nhiệm vụ, không có tư chất, trình độ, năng lực, vi phạm pháp luật sẽ phải bị bãi trừ ra khỏi Quốc hội. Có làm được như vậy mới nâng cao được tính pháp chế, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của người dân, Quốc hội mới xứng đáng là cơ quan quyền lực tối cao.

Dưới đây là bài viết trích đăng từ Báo Tuổi trẻ Online:

TTO - Sáng 27-4, Quốc hội tổ chức hội nghị trực tuyến các đoàn đại biểu Quốc hội, nghe và thảo luận đề án tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. 

Phát biểu tại hội nghị, phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga đề nghị "bỏ phiếu tín nhiệm đối với chức danh tương đương bộ trưởng trở lên".

Một trong những nội dung đáng chú ý nhất của đề án nêu trên là việc: hằng năm tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Đặng Văn Chiến cho biết kết quả bỏ phiếu được công bố công khai; người không đủ phiếu tín nhiệm quá bán so với tổng số đại biểu Quốc hội hai lần liên tiếp sẽ được xem xét, trình Quốc hội miễn nhiệm hoặc từ chức. Đồng thời giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội xây dựng quy chế quy định cụ thể đối tượng, quy trình, thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp cuối năm 2012 (kỳ họp thứ 4).
Như vậy, nếu đề án này được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3 vào tháng 5 tới đây và có quy chế cụ thể tại kỳ họp thứ 4, việc bỏ phiếu tín nhiệm có thể được tiến hành từ năm 2013.
Chất vấn những vấn đề bức xúc
Theo đề án, đối với hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp sẽ dành toàn bộ thời gian tại hội trường cho việc trả lời câu hỏi trực tiếp. Bố trí phiên chất vấn vào cuối kỳ họp để đại biểu Quốc hội có thời gian chuẩn bị câu hỏi chất vấn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội lựa chọn một số nhóm vấn đề bức xúc, nổi cộm mà dư luận xã hội, cử tri và đại biểu Quốc hội quan tâm, dự kiến danh sách những người trả lời chất vấn gửi xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Tại phiên chất vấn, tiến hành chất vấn từng nhóm vấn đề theo hướng đối thoại, tranh luận đến cùng từng vấn đề.
Hội nghị trực tuyến của Quốc hội do Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu chủ trì
Hằng năm tổ chức ít nhất hai lần chất vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội về những vấn đề được Quốc hội giao hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội lựa chọn; ít nhất hai lần báo cáo giải trình tại Hội đồng dân tộc, từng ủy ban của Quốc hội về những vấn đề thuộc lĩnh vực hội đồng, ủy ban phụ trách. Mở rộng đối tượng tham gia chất vấn, báo cáo giải trình.
Thông tin công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về hoạt động chất vấn, báo cáo giải trình; tổ chức phát thanh, truyền hình trực tiếp và trực tuyến để đại biểu, nhân dân theo dõi.
Nguồn TTO

Trở lại “miền đất lửa” Quảng Trị



Vào những ngày tháng Tư, khi đất nước đang sống lại những năm tháng của một thời oanh liệt trong những năm chiến tranh và hướng tới kỷ niệm 37 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Chúng tôi có dịp quay lại Quảng Trị, tọa độ đánh phá ác liệt những năm Mỹ leo thang mở chiến tranh phá hoại. Tại đây, chúng tôi ghi nhận nhiều hoạt động của những cựu binh đã từng tham gia kháng chiến tri ân đồng đội mình – những anh hùng, liệt sỹ đã ngã xuống vì đất nước.

Sống lại ký ức hào hùng

Dưới cái nắng chói chang của mùa hè, nhiều cựu chiến binh đã vượt hàng nghìn cây số để trở lại chiến trường xưa thắp những nén nhang tưởng nhớ đồng đội. Những ký ức của hơn năm mươi năm về trước chợt hiện về trong những dòng nước mắt tri ân người đã khuất. Chứng kiến cảnh này, là con dân Việt Nam không ai có thể cầm được nước mắt – những dòng nước mắt tưởng nhớ công lao của các chú, các anh, các chị đã hy sinh cho hòa bình.
 Cầu Hiền Lương lịch sử ghi dấu một thời đất nước bị chia cắt

Những năm, tháng cùng cả nước ra trận để giành lại độc lập, tự do, Quảng Trị là một địa chỉ đỏ thu hút sự chú ý, theo dõi của thế giới. Hòa bình, Quảng Trị vẫn là một điểm son trong tâm thức của người Việt Nam luôn trân trọng và biết ơn những cống hiến và hy sinh để làm nên một phần lịch sử oai hùng, bi tráng. Dòng Thạch Hãn soi bóng thành cổ, cầu Hiền Lương – sông Bến Hải của một thời chia cắt, Dốc Miếu, Cồn Tiên, địa đạo Vịnh Mốc... những địa chỉ ghi dấu về một thời oanh liệt. Và đó là mạch nguồn chảy mãi của những tình cảm chân thành, tha thiết mà bạn bè, đồng đội trên dải đất hình chữ S dành riêng với Quảng Trị giữa bộn bề dựng xây, phát triển và bảo vệ đất nước.

Trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Quảng Trị là nơi diễn ra những trận đánh dữ dội nhất mà điển hình là cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Tại đây, nơi mà huân chương khó đủ từng viên gạch, thiên sử vàng của dân tộc được viết tiếp bằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Từ ngày 28/6 đến ngày 16/9/1972, để đẩy lùi các cuộc hành quân tái chiếm tỉnh Quảng Trị của Mỹ-ngụy sau thất bại trước sức mạnh tiến công của quân và dân ta trong chiến dịch Xuân-hè 1972, thị xã Quảng Trị đã trở thành một thành phố tuẫn đạo của thế giới. 
 
 Nhà trưng bày vĩ tuyến 17 và khát vọng thống nhất.
Trên địa bàn Quảng Trị, Mỹ-ngụy đã trút xuống hàng vạn tấn bom đạn. Nhưng, bằng chính lòng quả cảm, ý chí và nghị lực phi thường của “những con người Việt Nam với truyền thống bốn ngàn năm đã “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” để kiên cường chống lại kẻ thù. Cùng với các chiến trường khác, ta thắng lớn buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Paris cam kết rút khỏi miền Nam Việt Nam. Để làm nên chiến thắng hào hùng của dân tộc đã có hàng vạn chiến sỹ đã ngã xuống cho độc lập tự do, cho hòa bình, thống nhất.
Sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống.

Tấm lòng tri ân đồng đội

Tưởng nhớ đồng đội đã ngả xuống trong cuộc chiến khốc liệt vào mùa hè năm 1972, lòng tri ân của người Việt Nam đang sống trên một dải non sông vững nhịp thái hòa hiểu cuộc sống quý giá này đã được đánh đổi bằng máu xương của thế hệ cha anh, trong đó có rất nhiều tuổi hai mươi vĩnh viễn nằm lại dưới lau trắng, đất nâu, phượng hồng và gạch vỡ của Thành cổ Quảng Trị, trong sóng nước nhè nhẹ miên man của dòng Thạch Hãn đã thôi thúc nhiều đồng đội của những con người ưu tú đó về thị xã Quảng Trị vào mỗi dịp kỷ niệm ngày Thương binh, liệt sĩ 27 tháng 2 hàng năm để thả hoa tưởng nhớ những đồng đội đã hóa thân vào sóng nước Thạch Hãn. 

       Thắp hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Trường Sơn.

Từng là một tọa độ lửa trong cuộc chiến tranh mà nhân dân Việt Nam thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Ngày nay, Quảng Trị luôn ở trong sự cảm phục, giữa những tấm lòng yêu mến và tình cảm sâu sắc của đồng đội và đồng bào cả nước. Bởi đã có hàng vạn người con của dân tộc ở nhiều miền quê khác nhau quả cảm chiến đấu và anh dũng hy sinh ngay trên đất đai, sông nước, xóm thôn, làng mạc của mình.
 
Quảng Trị là địa phương chịu sự hy sinh lớn lao, khắp miền đất nhỏ nhoi này đâu đâu cũng thấm đẫm giọt máu của các vị anh hùng liệt sỹ. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9, cùng nhiều nghĩa trang liệt sĩ các huyện trên địa bàn là những minh chứng xác thực nhất về lòng quả cảm của người dân Việt Nam. Rất nhiều những vị anh hùng, liệt sỹ từ khắp mọi miền đã vĩnh viễn nằm lại mảnh đất này, đến nay chưa thể trở về quê hương.
 
 Tri ân đồng đội tại vĩ tuyến 17
 Nhưng để tỏ lòng tri ân những vị anh hùng ấy, qua hàng năm vào những dịp kỷ niệm ngày chiến thắng 30/4, ngày tưởng nhớ công lao các vị anh hùng liệt sĩ 27/7,… luôn có những hoạt động nghĩa tình trở về chiến trường mang theo những hương đất và vị nước từ khắp mọi miền đất nước hòa vào khí thiêng đất đai nơi các chú, các anh đã ngã xuống như một lời nhắn nhủ dù các anh không trở về nhưng chúng tôi sẽ mang quê hương về với các anh.
 Thắp hương tại di tích thành cổ.

Trong vòng tay đồng đội, đồng bào, Quảng Trị trở thành địa chỉ thân quen của nhiều người Việt Nam và bạn bè quốc tế và cũng là nơi nhiều chiến sĩ Giải phóng quân ở lại muôn đời trong tình yêu thương của Bác Hồ, của Tổ quốc và của nhân dân mình. Trở về chiến trường xưa để thực hiện những việc làm ân nghĩa là một cuộc hành quân mới mang đậm ý nghĩa và giá trị văn hóa, thấm đẫm chất nhân văn mà người Việt Nam hôm nay thiết tha cùng Quảng Trị anh hùng vun đắp thêm khát vọng hòa bình, thịnh vượng trong mỗi bước đi của nhân loại. 

 Dân miền Trung

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Dân Quảng Bình xôn xao vụ trúng sưa gần 300 tỷ

Dân miền Trung - Chưa bao giờ người dân Phúc Trạch, Quảng Bình lại nóng như hôm nay bởi nghe tin nhóm lâm tặc trúng sưa trên trăm tỷ. Thông tin này dù chưa biết thực hư thế nào nhưng đã gây ra hệ lụy to lớn. Người dân đổ xô vào rừng với ước mong có thể tìm kiếm được chút cành còn sót của cây sưa cổ thụ. Một nhóm khác đầu cơ để mua bằng được số hàng quý nói trên, nhiều người còn dám thế chấp ngân hàng vay hàng tỷ đồng để chung vào với một số đầu nậu mua hàng mong kiếm lời. Chính quyền, các sở, ban, ngành cũng đang đau đầu về thông tin chưa được chứng thực. Tuy vậy, tỉnh đã có chỉ đạo về việc siết chặt công tác kiểm tra, giám sát nhằm ngăn không cho lâm tặc tẩu tán số gỗ quý nói trên. Nhưng vấn đề đặt ra là việc kiểm soát ấy có đủ mạnh khi mà lực lượng chức năng mỏng, diện tích đồi núi dàn trải và nguy hiểm, lâm tặc lại mưu mô và vô cùng liều lĩnh, có thể bằng mọi cách để tiêu thụ và tẩu tán được số gỗ nói trên.


Dưới đây là kết quả mới nhất liên quan đến diễn biến vụ trúng sưa:
Vụ trúng gỗ sưa trăm tỉ: "Hàng" đã ra khỏi rừng?
Trong khi tin đồn nhóm lâm tặc trúng ba cây sưa trăm tỉ đồng ở Quảng Bình vẫn chưa hết nóng thì mới đây tại địa phương lại có tin: bất chấp sự canh gác của lực lượng chức năng, số gỗ sưa nói trên đã được gùi ra khỏi rừng.
Có mặt ở điểm nóng “vương quốc gỗ sưa” thuộc Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng vào sáng ngày 25/4, chúng tôi lại được người dân nơi đây cung cấp thêm thông tin: Số gỗ sưa mà nhóm lâm tặc ở xã Phúc Trạch vừa trúng đã được các sơn tràng địa phương (những người gùi gỗ thuê) vận chuyển ra ngoài và bán cho các đầu nậu. Theo tin thì chỉ mới bán các phần phụ của cây sưa như đe, rễ, cành và ngọn; mỗi kg có giá từ 2 - 15 triệu đồng. Riêng phần chính là 110 phác gỗ mặt của 3 cây sưa đã được lâm tặc chôn giấu an toàn, chờ đến thời điểm thích hợp mới đưa ra.
Một thông tin khác lại cho rằng, một phần gỗ của ba cây sưa nói trên đang được các sơn tràng gùi qua biên giới Việt - Lào.
Có nguồn tin cho rằng một phần gỗ sưa đã được đưa ra khỏi rừng. (Ảnh minh họa: P.V)
Theo nguồn tin riêng mà chúng tôi có được, vào khoảng cuối giờ chiều qua (24/4), các nhóm gùi gỗ thuê đã cắt đường rừng và đang áp sát biên giới Việt - Lào. Theo giới buôn sưa chuyên nghiệp nhận định: Nếu số gỗ sưa trên lọt qua Lào thì các đầu nậu sẽ rất đơn giản trong việc làm các thủ tục giấy tờ cần thiết. Khi đó số gỗ sưa trên sẽ là hàng hợp pháp và lại được nhập khẩu về Việt Nam để tiêu thụ.
Trước những thông tin trên, Đại tá Nguyễn Văn Phúc - Chỉ huy trưởng Biên phòng Quảng Bình - cho hay: "Hiện lực lượng biên phòng tỉnh đang ráo riết truy bắt nhóm lâm tặc vận chuyển gỗ sưa trong rừng, nhưng phương án cụ thể thế nào thì chúng tôi không thể tiết lộ. Còn ở khu vực Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng giáp với biên giới Việt - Lào đang được 2 đồn Biên phòng là Cà Xèng và Cồn Roàng chốt giữ rất nghiêm ngặt".
Đại tá Phúc nhận định, chạy dọc biên giới Việt - Lào ở khu vực này có dãy núi Giăng Màn, cao trên 2.500m, rất hiểm trở nên lâm tặc muốn gùi hàng vượt qua đây không hề dễ dàng. Trong khi đó, theo nhiều người có thâm niên đi rừng, đối với các sơn tràng chuyên gùi gỗ thuê, không có ngọn núi nào mà họ không thể vượt qua. Họ có thể gùi cả tạ hàng trên vai để băng qua những dãy núi đá vôi cao ngút.
Sự thật những cây sưa "tin đồn" ấy đang ở đâu? Có hay không việc lâm tặc đã mang được một phần gỗ sưa ra khỏi rừng mà cơ quan chức năng không biết? Những câu hỏi này cần được các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Bình trả lời cho dư luận.
Nhóm PV Dân trí

Phát huy tinh thần Ngày Chiến thắng 30-4 và Quốc tế Lao động 1-5, quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp

(QBĐT) - Hoà trong không khí  toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực vượt qua khó khăn, thử thách, biến nghị quyết đại hội Đảng các cấp thành hiện thực cuộc sống và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI), Đảng bộ, dân và quân tỉnh ta đang sôi nổi thi đua lập nhiều thành tích thiết thực kỷ niệm 37 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2012) và 126 năm Ngày Quốc tế Lao động (1-5-1886 - 1-5-2012).
Những ngày này 37 năm về trước, mùa Xuân năm 1975, bằng sức mạnh bốn nghìn năm của cả dân tộc, quân và dân ta đã thần tốc tiến vào trận đánh cuối cùng: Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. 11giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ chiến thắng đã tung bay trên nóc dinh Tổng thống ngụy quyền, chấm dứt chế độ tay sai ngoại bang, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kỳ gian khổ và oai hùng của dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới cho Tổ quốc - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Từ mốc son chói lọi này, đất nước ta bước sang trang mới. Đặc biệt,  hơn 25 năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, đưa đất nước từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu; kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng phát triển; dân chủ được mở rộng; đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện; quốc phòng-an ninh được giữ vững; uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Trong suốt chặng đường cách mạng vừa qua, cùng với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cả nước, Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình đã đoàn kết một lòng, vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển đất nước cũng như công cuộc đổi mới hiện nay. Từ một vùng đất đổ nát hoang tàn sau chiến tranh, Quảng Bình hôm nay đã đổi thay rõ rệt: bộ mặt từ thành thị đến nông thôn khởi sắc, kinh tế có bước phát triển vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể...
Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình đang phát huy sức mạnh đoàn kết  toàn dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, vai trò và hiệu lực quản lý của bộ máy chính quyền các cấp, tập trung cải cách hành chính, chăm lo công tác cán bộ, tăng cường các giải pháp đột phá về phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Thiết thực kỷ niệm Ngày Chiến thắng 30-4 và Quốc tế Lao động 1-5, với truyền thống của quê hương “Hai giỏi”, Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thách thức, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, chỉ tiêu, kế hoạch năm 2012, tiến tới thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, xây dựng  quê hương, đất nước ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.
                                                                                       Quảng Bình