Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

“Từng tấc đất của Tổ quốc là máu xương bao thế hệ đi trước”


(Dân trí) - Trong cuộc chiến đấu ngày 17/2/1979, cả đại đội 3 chỉ còn 7 người sống sót. Dù tương quan lực lượng quá chênh lệch nhưng họ - những chiến sỹ công an vũ trang Việt Nam - đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc.
 >>  "Phải trả lại vị trí cho những anh hùng đã hy sinh"

Chúng tôi tìm đến nhà Đại tá Nguyễn Công Thuận (SN 1951, quê huyện Anh Sơn, hiện sống tại phường Hà Huy Tập, TP Vinh, Nghệ An) vào một ngày rét cắt da, cắt thịt. Trong cái lạnh thấu xương, ký ức về một cuộc chiến đấu nơi biên giới phía Bắc hơn 30 năm trước ùa về trong từng lời kể của người anh hùng.
Đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Công Thuận
Đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Công Thuận.
Khi tình hình biên giới Việt - Trung bắt đầu căng thẳng, đơn vị đại đội 3, tiểu đoàn 1, Trung đoàn 12 Công an nhân dân vũ trang (tức lực lượng bộ đội biên phòng ngày nay) do Nguyễn Công Thuận làm đại đội trưởng được lệnh về Lạng Sơn, đóng quân tại tuyến biên giới khu vực Đồng Đăng, từ cột mốc số 12 - 25 (Tân Thanh đến Bảo Lâm).
Dưới sự chỉ đạo của phía Trung Quốc, tình hình người Hoa tại khu vực biên giới rất căng thẳng. Chỉ tính từ tháng 4 đến tháng 8/1978, có khoảng 5.000 người Hoa tập trung tại Hữu Nghị quan (cửa khẩu Hữu Nghị), đoàn người kéo dài đến 200m, dựng lán trại để vượt biên sang Trung Quốc. Cùng với đó lính Trung Quốc luôn tìm cách gây hấn bằng đá, gậy gộc.
Đại đội 3 có nhiệm vụ vừa vận động người dân ở lại, vừa xây dựng lực lượng, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu nếu có tình huống chiến tranh xảy ra. “Ngày 25/8/1978, đoàn đại biểu phụ nữ tỉnh Lạng Sơn lên vận động, tuyên truyền người Hoa ở lại yên tâm làm ăn sinh sống. Một số cán bộ, chiến sỹ đại đội 3 được cử đi bảo vệ đoàn.
 
Đất của mình, chỗ đứng của mình, nhà của mình thì mình phải giữ lấy (Ảnh tư liệu)
"Đất của mình, chỗ đứng của mình, nhà của mình thì mình phải giữ lấy" (Ảnh tư liệu) 
Lính biên phòng Trung Quốc đã dùng gậy, đá tấn công đoàn cán bộ và lực lượng bảo vệ khiến đồng chí Lê Đình Chinh hi sinh và một số đồng chí khác bị thương. Lợi dụng sự hỗn loạn, hàng nghìn người Hoa đã vượt biên sang Trung Quốc” - ông Thuận nhớ lại.
Công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới khi có nguy cơ chiến tranh được đẩy lên cao. Tuy nhiên, với quan điểm không để xảy ra tiếng súng, lực lượng vũ trang Việt Nam được lệnh hết sức kiềm chế. “Đơn vị chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ cao điểm Pò Pùn (Tân Thanh) và cột mốc 16 - là điểm tranh chấp giữa 2 bên. Việc canh gác, bảo vệ được thực hiện hết sức nghiêm ngặt nhưng vẫn đảm bảo tránh xung đột. Tối ngày 16/2/1979, khi đi kiểm tra khu vực biên giới nghe mấy tiếng mìn nổ lên chát chúa vang lên, công tác sẵn sàng chiến đấu được đẩy lên cao, dự liệu một cuộc chiến tranh vũ trang có thể xảy ra bất cứ lúc nào”, Đại tá Thuận kể.
Đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Công Thuận
Đại tá Thuận bên tấm bằng ghi nhận chiến công bảo vệ từng tấc đất Tổ quốc trong cuộc chiến đấu ngày 17/2/1979.
Đúng như lời dự đoán, 4h sáng ngày 17/2/1979, một tiếng mìn nổ ngay sân đơn vị, tiếp đó hỏa lực địch các loại cấp tập tấn công khiến chỉ trong một thời gian ngắn toàn bộ doanh trại, kho tàng của đại đội 3 bị thiêu hủy.
7h30 phút sáng ngày 17/2/1979, địch tấn công doanh trại từ bản Cốc Nam xuống và từ bản Khơ Đa sang. Đơn vị được lệnh triển khai đội hình chiến đấu. Toàn bộ hệ thống giao thông hào, hầm trú ẩn của đại đội 3 bị phá hủy hoàn toàn sau đợt pháo của địch, một số anh em hi sinh, một số khác bị thương nặng. Lúc này, toàn bộ thông tin liên lạc với tuyến sau đều bị cắt đứt. Việc liên lạc với trung đội tăng cường lên bảo vệ Pò Pùn cũng không thực hiện được (sau này mới biết, 27/30 cán bộ, chiến sỹ tăng cường lên Pò Pún đã hi sinh trong cuộc tấn công của địch). Toàn bộ cán bộ, chiến sỹ đại đội 3 phải chiến đấu trong thế bị cô lập.
 
“Từng tấc đất của Tổ quốc là máu xương bao thế hệ đi trước”
Báo Nhân dân số ra ngày 20/3/1979
Ngay trong loạt đạn đầu tiên, đại đội trưởng Nguyễn Công Thuận đã dính đạn xuyên đùi. Băng bó sơ qua, Nguyễn Công Thuận lao vào chiến đấu. “Lên đến gần chốt thì đồng chí Hùng - phụ trách khẩu trung liên báo cáo phía trước có địch. Đồng chí Hùng dính đạn, hi sinh. Tôi phát hiện phía trước là 3 tên địch và một khẩu ĐK57 đang chuẩn bị tấn công về phía ta. Chẳng kịp suy nghĩ, vớ lấy khẩu trung liên, tôi nã một loạt đạn vào 3 tên địch, tiêu diệt tại chỗ 2 tên.
Có những lúc, khẩu cối 60 không kịp dựng chân đế, cứ kê trên đùi, nhắm về phía địch mà nã đạn. Chiến sỹ ta số bị thương, số hi sinh, lực lượng ít ỏi còn lại phải căng mình chiến đấu trước sự tấn công cả bằng xe tăng của địch. Đến 9h sáng ngày 17/2/1979, phía đường 4B xuất hiện 4 chiếc xe tăng hướng thẳng tới nơi đơn vị chúng tôi đóng quân. Tôi nhảy đến khẩu B40, nhắm thẳng chiếc xe tăng đang quay ngang và siết cò. Chiếc xe khựng lại, bốc cháy.
Cuộc chiến đấu không cân sức trong thế giằng co kéo dài đến 11h trưa. Lúc này đạn dược hết, anh em bị thương và hi sinh gần hết, chúng tôi buộc phải lùi về tuyến sau, ẩn mình dưới dòng suối hoặc tản vào các nhà dân. Các cao điểm bị địch khống chế, một lực lượng lớn địch tràn qua đơn vị tiến sâu hơn vào phía trong. Trên đường rút lui, vừa tải thương, vừa đưa tử sỹ ra, chúng tôi tiếp tục bị địch phục kích, truy bắt. Chiều ngày 18/2/1979, khi đến khu vực an toàn, cả đại đội chỉ còn vỏn vẹn 7 người trong tình trạng bị thương gần hết”, đôi mắt vị đại tá già chùng xuống, ngấn nước.
Đại tá - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Công Thuận
"Từng tấc đất của Tố quốc là máu xương của bao thế hệ đi trước. Bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc là nhiệm vụ của những người lính như chúng tôi".
Sau thời gian điều trị vết thương, đơn vị ông Thuận được củng cố. Tháng 4/1979, toàn đơn vị được lệnh hành quân lên Bảo Lạc (Cao Bằng) tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tuyến biên giới Việt - Trung. Chiến tranh biên giới kết thúc, đơn vị của ông sáp nhập tham gia bảo vệ thủ đô.
Với thành tích chiến đấu trong trận chiến ngày 17/2/1979, tiêu diệt 30 tên địch và 1 chiếc xe tăng, tháng 12/1979, thiếu úy Nguyễn Công Thuận được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân, phong vượt cấp lên thượng úy.
Nói về trận chiến đấu ngày 17/2/1979, vị đại tá già nắm chặt tay: “Từng tấc đất của Tổ quốc là máu xương, là nước mắt của bao thế hệ đi trước. Là đất của mình, chỗ đứng của mình, nhà của mình thì nhiệm vụ của những người lính như chúng tôi là phải giữ lấy từng tấc đất của Tổ quốc”.
Hoàng Lam
Theo Dân trí

Ký ức về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 17/2/1979


(PetroTimes) - 35 năm đã trôi kể từ khi xảy ra cuộc chiến tranh bảo vệ biên cương phía Bắc Tổ quốc (1979-1989) nhưng trong ký ức tôi, những đồi hoa sim tím suốt dọc dài biên cương phía Bắc vẫn còn in đậm với những tên đất, tên người và những trận chiến đấu ác liệt ở đó.
 
Những chuyến hành quân lên mặt trận
Ngày 17/2/1979, chiến tranh biên giới Việt - Trung trải dài ở 6 tỉnh Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Từ các tỉnh phía sau, nguồn nhân lực, vật lực được khẩn trương huy động đáp ứng cho mặt trận. Tôi đã chứng kiến trong tiết trời giá lạnh, hình ảnh người Hà Nội vẫy chào, tiễn những đoàn xe quân sự vượt cầu Long Biên tiến về phía Bắc. Thanh niên, sinh viên khi ấy đều háo hức muốn được lên biên giới, góp sức mình cùng bộ đội bảo vệ biên cương. Và khi có lệnh tổng động viên đầu tháng 3/1979, hàng vạn thanh niên cả nước đã hăng hái lên đường.
Những cuộc hành quân qua nhiều địa danh trên biên giới, tôi gặp những vùng đất nhuộm tím hoa sim. Một loài hoa dại bạt ngàn từng đi vào thơ ca, vào ký ức học trò. Vậy mà bom đạn chiến tranh đã khiến những đồi hoa sim bị băm nát, xáo trộn cùng đất đỏ. Những cánh hoa tím mong manh bị sạm đen khói súng, tả tơi. Thời bình, người ta có thể thong thả ngắm nhìn vẻ đẹp lãng mạn của đồi sim. Song khi ấy, chiến sự căng thẳng khiến mọi người không còn tâm trí đâu mà thưởng thức. Các chiến sĩ trinh sát dẫn chúng tôi đi, không ồn ào, không đùa giỡn bởi dưới mặt đất có khá nhiều mìn và những quả đạn chưa nổ. Họ yêu cầu chúng tôi phải đi đúng vào vết chân họ đi trước dẫn đường và sẵn sàng ẩn nấp khi có pháo hoặc đạn cối bắn sang.
Thời ấy, tôi đang là phóng viên của Chương trình phát thanh QĐND, Đài tiếng nói Việt Nam, làm nhiệm vụ tường thuật chiến đấu tại mặt trận. Ngoài quân tư trang, tôi phải đeo thêm chiếc máy ghi âm R6 cổ lỗ chạy băng cối và 6 pin đại, nặng tới 6 kg.
Sau dịp tết năm 1980, tôi cùng lên biên giới Lạng Sơn với các nhà văn và nhà báo Thân Như Thơ, Cao Nham, Mai Thế Chính, Nguyễn Văn Nhung, Phạm Thành, Đinh Xuân Dũng. Từ Quân đoàn 14, chúng tôi phân công nhau đi về nhiều hướng của mặt trận. Những trận đánh quy mô nhỏ thỉnh thoảng xảy ra ở những điểm cao dọc đường biên. Các nẻo đường biên giới vắng ngắt, chỉ có các đơn vị quân đội, rất hiếm bóng dân thường.
Quân ta tiến ra mặt trận (Ảnh: Mạnh Thường)
Trời mưa phùn rả rích, đường trơn lầy lội. Chúng tôi leo lên một điểm tựa ở dãy núi đá thuộc huyện Văn Lãng. Phân đội súng cối 81 ly có hơn chục chiến sĩ. Hôm ấy đúng vào ngày rằm tháng giêng. Chiếc nồi quân dụng đầy cơm nhưng thức ăn chỉ có thịt muối và mắm kem, không rau. Anh em bảo rằng, miếng thịt muối đã ngâm nước từ tối qua (cho mềm và bớt mặn) nhưng hôm nay thái ra vẫn còn rắn lắm. Tôi bỗng thấy thương anh em quá. Người ta thường ví “Giỗ tết quanh năm không bằng rằm tháng giêng”. Cả nước đang quay quần bên mâm cỗ ngày rằm với đầy đủ món ngon truyền thống thì ở đây, bộ đội phải ăn bữa cơm quá đạm bạc!
Hôm sau, tôi và anh Mai Thế Chính hành quân từ Văn Lãng về Đồng Đăng (Lạng Sơn). Bữa cơm trưa hôm ấy ở sở chỉ huy Trung đoàn 42 do Trung tá Nguyễn Như Hoạt, Anh hùng LLVT thời đánh Mỹ làm trung đoàn trưởng. Bữa ăn chỉ có cá khô, thịt muối. Anh Hoạt lấy phích nước sôi, rót ra cái bát to và rắc vào đó ít mì chính và vài hạt muối để thay canh. Mấy ngày trước tết, Trung đoàn 42 vừa được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh lên thăm. Tuy đóng ở địa bàn thuận lợi hơn nhiều đơn vị khác nhưng trung đoàn cũng còn rất thiếu thốn.
Đầu năm 1982, chúng tôi nhận lệnh lên biên giới Cao Bằng. Từ bến xe Bến Nứa (Long Biên), đi xe khách mất nửa ngày mới đến Thái Nguyên; sau đó chúng tôi cuốc bộ 7 km về Bộ tư lệnh Quân khu 1. Chờ 4 ngày nữa mới có xe của Quân đoàn 26 về lấy hàng, chúng tôi theo chiếc xe tải đó lên Hòa An, nơi đóng quân của sở chỉ huy, cách thị xã Cao Bằng gần chục cây số. Từ km số 8, chúng tôi lại cuốc bộ xuyên rừng núi 5 km để vào Bộ tư lệnh. Rồi lại chờ 3 ngày nữa mới có xe của Sư đoàn 311 về họp và đón đi Thạch An, Đông Khê. Thế là mất đứt một tuần lễ chúng tôi mới đến được với bộ đội. Trước đấy vài tháng, vào dịp tết, đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ chính trị mới lên thăm bộ đội Quân đoàn 26 (Binh đoàn Pắc Bó), đã làm bài thơ “Điểm tựa” tại Quảng Hòa tặng cán bộ, chiến sĩ. Bài thơ ấy thể hiện được sự cảm thông sâu sắc của lãnh đạo cấp cao đối với bộ đội nơi điểm tựa tiền tiêu, có tác dụng rất lớn, động viên tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ.
Cao Bằng vốn là tỉnh có nhiều núi đá nên bộ đội sống trên điểm tựa đều thiếu nước. Nước sinh hoạt hàng ngày phải gùi từ suối lên, có chỗ leo qua thang dây và hàng trăm bậc đá. Ngay ở Bộ tư lệnh quân đoàn, bể nước chỉ để dành cho nhu cầu ăn uống, do nhà bếp quản lý, thường khóa chặt. Việc tắm giặt phải dùng nước suối hoặc nhờ nhà dân. Trời mùa xuân ẩm ướt, lại ở hang đá và nhà tranh tạm bợ, ít ai tránh khỏi bệnh ghẻ và hắc lào. Chúng tôi từ thành phố lên điểm tựa được 1 tuần là bị ngay, ngứa gãi suốt ngày đêm. Vì thế, có hôm trên đường hành quân, gặp suối là tất cả trút bỏ tư trang, quần áo, nhảy xuống tắm tiên hàng giờ đồng hồ.
Những ngày ở đại đội đóng bên dòng sông Bắc Vọng (thuộc huyện Quảng Hòa), cứ cuối buổi chiều là các chiến sĩ lại rủ chúng tôi ra sông tắm. Dòng sông này chỉ rộng chừng 30m, đường phân thủy giữa sông là biên giới Việt - Trung. Bờ bên kia là điểm cao 302, quân Trung Quốc bố trí mấy khẩu cối 82 ly và 60 ly chĩa sang phía ta. Bộ đội ra tắm tiên, không mang theo vũ khí nên quân Trung Quốc cũng không có hành động khiêu khích gì. Một hôm tắm xong, lên bờ mặc quần áo, tôi giật mình thấy 2 con vắt bám vào người…
Thời gian này không còn những trận đánh lớn xảy ra mà chỉ có những cuộc đụng độ nhỏ trên đường biên. Các đồn biên phòng đã được củng cố và xây dựng lại bằng những căn nhà cấp 4. Nhân dân đã trở lại bản làng cũ, khôi phục sản xuất nông nghiệp. Một vài đơn vị quân đội cũng vỡ đất, trồng mía, làm đường, chăn nuôi tự túc một phần thực phẩm. Các trường học đã hoạt động trở lại. Nhưng hệ thống giao thông thì hầu như bị hư hỏng nặng, nhất là đường lên huyện Bảo Lạc. Cán bộ đi từ xã lên huyện đều cuốc bộ, xuyên rừng, lội suối. Quốc lộ 4 lâu ngày không được tu sửa lại qua cuộc chiến tranh, bị tàn phá nặng nề, chỉ còn là con đường đá lởm chởm. Hôm chúng tôi đi từ sư đoàn xuống trung đoàn bằng chiếc xe mô tô ba bánh mà thấy khiếp mãi bởi đèo dốc vòng vèo và những cú xóc nảy người, nhiều lúc cảm thấy xe sắp bay xuống vực. Trâu ngựa hai bên đường thấy xe là tung vó, nhảy lên chạy tán loạn.
Hè năm 1983, chiến sự lại rộ lên ở vùng Hoàng Liên Sơn (Lào Cai) và Hà Tuyên (Hà Giang). Tôi đến vùng giáp ranh Lào Cai và Lai Châu. Có hôm cùng các chiến sĩ đi tuần tra đường biên, vượt những quả đồi đầy cỏ lau và đá lởm chởm; thỉnh thoảng trượt chân, cả người và ba lô cứ trôi tuồn tuột trên thảm cỏ, gặp tảng đá thì sững lại, đứng đậy đi tiếp. Lối lên các điểm tựa chỉ là vệt mòn nhỏ. Các chiến sĩ luôn nhắc tôi phải đi đúng vết chân các anh, nếu không sẽ đạp phải mìn. Tôi thắc mắc, sao lắm mìn thế thì anh em bảo rằng, để chống thám báo mò lên tập kích.
Chiến sự ác liệt và dai dẳng nhất diễn ra ở huyện Vị Xuyên (Hà Giang). Những địa danh nổi tiếng lúc đó như Làng Lò, Làng Pinh, Hang Dơi, Thung lũng gọi hồn, đồi Cô Ích, đồi Đài, Cốc Nghè, 4 hầm, ngã ba Thanh Thủy, các điểm cao 772, 685, 211… đã in đậm trong tâm khảm mỗi cán bộ chiến sĩ từng tham gia chiến đấu ở Vị Xuyên. Nhiều chiến sĩ ta đã hy sinh ở chiến trường này. Trận đánh ngày 12/7/1984, mật độ pháo địch dày đặc, bắn như vãi đạn nhiều giờ liền sang trận địa ta, gây tổn thất lớn trên điểm cao 772 khiến hàng trăm cán bộ, chiến sĩ thương vong.
Tôi chứng kiến Tiểu đoàn 10 pháo binh (Quân khu 2) sau một trận chiến đấu, hầu như bị tê liệt hoàn toàn. Con số thương vong quá nhiều, những khẩu pháo bị phá hủy, nằm chỏng chơ ngay bên đường đi. Vỏ đạn pháo 85 ly bằng đồng sáng lóa, vàng rực như những đống rơm. Những bụi sim mua xơ xác, cháy trụi, phủ một lớp bụi dày. Cả một dãy núi đá bị pháo địch cày xới nhiều lần, trơ ra một màu trắng toát lạnh người. Từ đó, bộ đội ta quen gọi nó là “Lò vôi thế kỷ”.
Sau thiệt hại nặng ở Vị Xuyên, những nghĩa trang liệt sĩ cứ mở rộng dần ra, tinh thần bộ đội ta có phần nao núng. Các sư đoàn chủ lực chuyển sang hình thức luân phiên chiến đấu. Những đơn vị ở phía sau lên thay thế để các đơn vị đã tham chiến rút về phía sau củng cố lượng lượng. Lúc này công tác động viên tư tưởng cho bộ đội rất khó khăn bởi mặt trận ác liệt Vị Xuyên chỉ cách thị xã Hà Giang vài chục cây số. Cuộc sống sinh hoạt ở thị xã đã mang không khí thanh bình; hàng quán mọc lên, cảnh làm ăn tấp nập; tối đến tiếng nhạc xập xình, đèn màu nhấp nháy. Sự đối lập giữa hy sinh và hưởng thụ chi phối từng ngày đến tâm tư chiến sĩ.
Cuộc sống của người lính chiến
Tôi ở với bộ đội đặc công của Quân khu 2 trong một hang đá. Lúc đầu, các chiến sĩ còn hái được ít rau dớn (giống như cây dương xỉ) luộc ăn thay rau. Khi không còn loại rau rừng nào nữa, anh em bắn hạ mấy buồng quả cọ xuống luộc chấm muối ăn cho đỡ xót ruột. Vì mật độ đóng quân dày đặc, chiến đấu liên tục lại ở hầm và núi đá ẩm ướt, ít được tắm giặt nên bộ đội bị ghẻ lở khá nhiều. Quần áo thời đó may bằng loại vải chất lượng kém nên cũng chóng rách hai đầu gối. Có chiến sĩ quay quần mặc phía rách ra đằng sau và nói vui là “ưu tiên phía trước”.
Cứ một vài tuần anh em mới được luân phiên ra suối Thanh Thủy tắm một lần. Được những hôm đi tắm như thế, anh em ngâm nước suối khá lâu và lấy lá rừng xát vào người chữa ghẻ. Các chị em dân bản đi làm nương về qua suối, gặp bộ đội tắm rất đông và đều trần truồng cả nên ngượng, cứ phải làm thêm, chờ nhá nhem tối mới về nhà được. Vì vậy trong chuyến lên thăm bộ đội ở Vị Xuyên, chị Nguyễn Thị Hằng, lúc đó là Bí thư Trung ương Đoàn đã nói vui với các chiến sĩ rằng: “Tôi chúc các đồng chí khỏe, không ghẻ và tắm phải có quần đùi”.
Một hôm ở Sở chỉ huy tiền phương Quân khu 2, tôi được Thiếu tướng Phạm Hồng Cư và Thiếu tướng Lê Duy Mật cho biết, sáng sớm mai sẽ có trận pháo kích rất lớn của ta từ Thanh Thủy nã sang điểm cao 1509, cụm phòng thủ lớn của quân Trung Quốc. Trận địa pháo được bố trí ở sân bay Phong Quang (do Pháp làm trước đây đã bỏ hoang). Tôi có nhiệm vụ nấp trong chiếc hầm đơn sơ ở giữa sân bay, cũng là giữa hai làn pháo đấu nhau để tường thuật trận pháo kích ấy. Đêm trăng sáng. Sân bay Phong Quang là một thung lũng có cây rừng lúp xúp, dài khoảng hơn 1km. Những khẩu pháo giả nghi binh bằng ống tre, đường kính 8 cm đã được bố trí. Khi pháo thật ở phía sau bắn thì pháo giả cho nổ bộc phá tạo khói lừa địch. Dự kiến trận đánh khai hỏa vào 5 giờ sáng hôm sau. Nhưng rất tiếc, nửa đêm về sáng, mây mù kéo về dày đặc, đài quan sát không nhìn rõ mục tiêu nên đành hoãn trận đánh ấy..
Khi tiếng súng ở khu vực Vị Xuyên tạm ngưng, địch tập trung đánh đường giao thông của ta ở núi Bạc, Quản Bạ nhằm cắt đứt tuyến chi viện từ thị xã Hà Giang đi các huyện Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Bất kể loại xe nào chạy qua sườn núi Bạc đều bị pháo Trung Quốc bắn cháy. Vì đoạn đường này nằm sát biên giới lại trơ trọi giữa sườn núi đá cao nên từ bên kia biên giới, lính Trung Quốc nhìn rất rõ. Hàng chục chiếc xe các loại, có cả xe chở khách đã bị bắn cháy, lộn nhào xuống vực. Nếu qua được đoạn đường này thì lại gặp tọa độ thứ hai ở dốc Cổng Trời (từ Quản Bạ sang Yên Minh).
15 giờ chiều hôm ấy, xe chúng tôi đến núi Bạc, trời còn đang nắng gắt. Chiếc barie chắn đường có một nam dân quân chừng 45 tuổi đeo khẩu K44 đứng gác. Anh yêu cầu xe dừng lại và chờ trời tối mới được đi tiếp. Mặc dù chúng tôi trình bày lý do cần đến mặt trận gấp nhưng thái độ anh rất lạnh lùng, nguyên tắc, giữ đúng kỷ luật chiến trường. Chúng tôi đành phải chấp hành và ngồi trò chuyện với anh để “giết” cái khoảng thời gian dài 3 giờ đồng hồ chờ trời tối. Tên anh dân quân là Tẩn Dìn Phùng, quê ở ngay dưới chân núi Bạc. Xã cử một tổ 4 người thay nhau canh gác ở hai đầu đoạn đường qua núi Bạc, bảo vệ an toàn cho xe cơ giới qua lại đây.
Khi trời đã nhá nhem tối, anh mở barie cho xe chúng tôi đi. Chiếc xe com măng ca “đít vuông” cũ nát lại chở thêm một phi xăng 200 lít lắc lư, nhảy chồm chồm trên sườn núi đá. Hơi nóng từ núi đá, hơi xăng phả ra khiến bầu không khí ngột ngạt. Chúng tôi cuộn hết bạt hai bên xe lên cho thoáng và cũng để dễ quan sát; nếu có địch phục kích hoặc pháo bắn sang là có thể nhảy thật nhanh sang hai bên đường. Xe xấu, đường xóc nên đêm ấy, khi tới Quản Bạ thì chiếc xe của chúng tôi bị gãy đến nửa số thanh nhíp giảm xóc, không thể đi tiếp được nữa. Từ đấy, chúng tôi chỉ còn cuốc bộ.
Trưa hôm sau từ tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện Quản Bạ, tôi và nhà văn Đặng Văn Nhưng hành quân về xã Bạch Đích vì ở đó chiến sự đang diễn ra. Trời nắng nóng, chúng tôi phải cắt rừng núi đi theo đường chim bay. Một chiến sĩ người dân tộc Nùng khoác ba lô cùng súng đạn dẫn hai anh em đi. Cậu chiến sĩ quen luồn rừng lội suối từ nhỏ nên không tỏ ra mệt mỏi gì nhưng với hai anh em tôi thì đó là cuộc hành quân rất vất vả. Trèo qua hết dãy núi đá này sang dãy núi đất khác, cứ sau một giờ hỏi lại thì cậu chiến sĩ trẻ đều bảo sắp đến rồi. Cơn khát nước lại là một thử thách.
Nắng nóng, mang nặng lại trèo núi, băng rừng như vậy mà khát nước là cảm giác tôi chưa gặp bao giờ. Đến một vách đá có cây to và dây leo chằng chịt, tôi sáng mắt lên khi nhìn thấy một dòng nước từ kẽ đá chảy ra. Tôi gỡ ngay ba lô nhờ cậu chiến sĩ cầm giúp và ngắt một tàu lá to để hứng nước. Anh Nhưng nhắc tôi: “Chú mà uống nước rừng này là độc lắm đấy, ngã nước như chơi”. Nhưng vì cơn khát không còn chịu được, tôi vẫn uống. Tôi định ngồi nghỉ một lát nhưng cậu chiến sĩ nói ngay: “Nếu các thủ trưởng mà nghỉ nữa thì tối cũng chưa đến nơi được đâu. Mà ban đêm đi trong rừng càng khó, nhất là phải vượt qua núi”. Nói rồi cậu ta nhận mang giúp tôi chiếc máy ghi âm. Ai nấy mồ hôi nhễ nhại. Nhưng cậu chiến sĩ trẻ cứ coi như không có gì, vừa đi vừa kể chuyện rôm rả bằng giọng lơ lớ.
Chừng 17 giờ thì chúng tôi vào tới xã Bạch Đích. Nhưng một không khí vắng lặng bao trùm. Đồn biên phòng đã bị tàn phá tan hoang. Phía đầu bản là kho thóc còn đang cháy dở. Có một bác nông dân người Dao đang đi tìm trâu lạc cho chúng tôi biết: bộ đội biên phòng và dân bản rút hết lên dãy núi phía trên kia rồi. Quân Trung Quốc cũng đã rút về bên kia biên giới. Thế là chúng tôi lại quay ra, tìm đường lên dãy núi, nơi có con dốc dài, nối Yên Minh sang Đồng Văn. Cán bộ và chiến sĩ biên phòng đang ở tạm trong những hốc đá. Đêm ấy chúng tôi nghỉ cùng với anh em trên dãy núi ấy.
Đêm hôm sau chúng tôi đi tiếp sang dãy núi khác, nơi dừng chân tạm của tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện Yên Minh. Đồng chí chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện bị thương vào bắp chân hôm trước, do mảnh đạn cối xuyên thủng. Vết thương đang sưng to, lên cơn sốt, chưa kịp chuyển về tuyến sau, nằm rên hừ hừ trên đám lá thông. Lát sau, một đồng chí ở bộ phận quân y đến tiêm cho mũi thuốc giảm đau. Anh có vẻ bức xúc lắm nên khi nói chuyện với chúng tôi, anh bảo: “Tôi là lính chống Mỹ, bao nhiêu năm không sao, bây giờ lại bị thương ở đây. Chờ 2 ngày rồi chưa thấy quân tiếp viện. Chẳng lẽ ngày mai tôi cho anh em rút về tuyến sau”. Rồi anh bảo chúng tôi, mỗi người tự bẻ lấy mấy cành thông, rải ra mà nằm. Đêm ấy chúng tôi ngủ ở trên đỉnh núi, có mấy cây thông ở độ cao gần 2000 mét, đúng là cảnh “màn trời, chiếu đất”.
Hôm quay trở lại Quản Bạ, chúng tôi cũng đi vào ban đêm, nhờ chiếc xe tải của một đơn vị từ Mèo Vạc về. Xe đi đêm trên núi đá cheo leo hiểm trở nhưng không được bật đèn. Chúng tôi đứng trên thùng xe để tiện quan sát và nhảy xuống đường nếu bị pháo kích hoặc thám báo tấn công. Ba lô để dưới sàn xe, đứng dạng chân chèo, hai tay bám chặt vào thành xe và buồng lái mới chống đỡ được những cú xóc và lắc. Đang căng mắt về phía trước thì bất ngờ chúng tôi thấy hai bóng đen nhảy từ ven đường ra vẫy xe. Anh chiến sĩ lái xe giật mình, ngỡ là thám báo, bật đèn pha sáng rực. Hai người đàn ông đeo ba lô, máy ảnh, đi giày da bám đầy bụi đất xin đi nhờ. Tôi nhận ra đó là anh Vũ Đạt, phóng viên báo QĐND và anh Trần Định, phóng viên báo ảnh TTXVN. Gặp chúng tôi, các anh mừng quá, đi cùng về Ban chỉ huy quân sự huyện Quản Bạ đêm hôm đó.
Hồi ấy điều kiện thông tin rất khó khăn. Các tin bài viết xong phải đến trung tâm huyện mới gửi được qua đường thư bưu điện về Hà Nội và chậm mất 1 tuần. Tin chiến sự khẩn cấp thì dùng điện thoại từ cấp sư đoàn hoặc bưu điện huyện gọi về cho anh em ở tòa soạn chép lại. Vì thế, tòa soạn muốn chỉ đạo gì cũng không thể liên lạc được ngay.
Cuối năm 1983, chúng tôi lên Mường Khương (Lào Cai). Cũng con đường độc đạo dẫn lên đến cửa khẩu Pha Long nhưng nếu gặp mưa lũ là tuyến này bị chia cắt hẳn. Dọc con đường đi qua các xã Dìn Chin, Tả Gia Khâu, Tả Ngải Chồ, Tung Trung Phố, quân Trung Quốc đặt mìn hoặc dùng B41 đánh trộm những xe cơ giới qua đây. Dân ở những địa phương này đều là người thiểu số, không biết tiếng phổ thông. Do ít được tiếp xúc với người Kinh nên thấy bộ đội qua đây, họ nhìn với ánh mắt lạ lẫm, ngơ ngác. Giống chó ở vùng này cũng rất đặc biệt, lông xù, to như con sư tử. Cứ có xe ô tô chạy qua bản là chó lao ra sủa inh ỏi, râm ran thành dây chuyền suốt dọc đường. Đêm ở đồn biên phòng Pha Long với tôi là lần đầu tiên được biết đến cái rét thấu xương như thế nào. Mấy anh em ngồi quanh bếp lửa mà phía lưng vẫn lạnh đến run người.
Tôi nhớ hôm đoàn công tác chúng tôi từ Pha Long trở ra, đang vượt qua một cái ngầm thì xe bị thổi đệm nắp máy, đứng khựng lại. 6 anh em cùng nhảy xuống cố đẩy xe về Ban chỉ huy quân sự huyện Mường Khương. Nhưng tối hôm ấy, mấy anh cán bộ ở đó băn khoăn, yêu cầu chúng tôi phải giấu kín xe chứ nếu biết có xe con ở đây, thế nào phía Trung Quốc cũng bắn pháo tầm xa sang, rất nguy hiểm. Đường miền núi, xe lại xuống cấp, quá “đát” cả nên mỗi lần lên biên giới, chúng tôi phải mượn phụ tùng, linh kiện của các đơn vị chiến đấu để về Hà Nội là chuyện thường xuyên; nhất là mượn bánh xe, đèn pha và xin xăng dầu.
Tình nghĩa quân dân nơi biên giới
Những năm tháng sống giữa vùng chiến sự, chúng tôi có nhiều dịp giao lưu với đồng bào các dân tộc thiểu số ở biên cương phía bắc. Bởi đã lâu lắm, sau cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, bà con mới được đón nhiều bộ đội về như thế. Núi rừng bao năm trầm lắng, nay có bộ đội về, không khí sôi động hẳn lên. Những cánh rừng hoang vắng, tưởng như chưa có dấu chân người, giờ đây đã rộn rã, ồn ào bởi những đoàn xe cơ giới các loại kéo lên. Nhiều con đường mòn đã được phá đá mở rộng thành những tuyến giao thông liên hoàn nối các làng bản, xã huyện. Bộ đội giúp dân tăng gia, sản xuất, hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh. Nhiều tập tục lạc hậu được xóa bỏ. Người dân được bộ đội dạy chữ, chữa bệnh, rời nhà từ núi cao xuống thung lũng, hạn chế du canh, du cư.
Suốt những năm tháng diễn ra cuộc chiến tranh ở biên giới phía bắc, ngoài tấn công quân sự, Trung Quốc còn triệt để lợi dụng chiến tranh tâm lý, vu cáo Việt Nam và xóa nhòa ranh giới giữa kẻ đi xâm lược với người chống xâm lược. Từ các dãy núi cao, Trung Quốc đặt những cụm loa nén công suất lớn, có điểm chúng đặt tới vài chục chiếc loa, hướng sang phía Việt Nam. Hàng ngày, các cụm loa tâm lý chiến này phát 2-4 lần. Mở đầu là bài hát Tình hữu nghị Việt Nam - Trung Hoa của Đỗ Nhuận; tiếp đó là bài nói nói xấu chế độ và các nhà lãnh đạo Việt Nam. Ngoài ra là những bài đánh vào tâm tư, tình cảm của bộ đội ta, sống xa nhà, thiếu thốn, gian khổ…
Mùa gió bấc, tiếng loa có thể phóng sâu vào phía Việt Nam đến chục cây số. Trước tình huống đó, cán bộ chính trị, tuyên huấn của các đơn vị phải tăng cường bám sát nhân dân, tuyên truyền, giải thích cho bà con không nghe và tin vào những lời lẽ xuyên tạc của địch, đoàn kết cùng bộ đội chống lại kẻ thù, bảo vệ từng tấc đất biên giới. Cục địch vận (Tổng cục chính trị) cũng bố trí những xe lưu động gắn loa, phát đi những băng ghi sẵn nội dung tuyên truyền chống quân Trung Quốc xâm lược. Tuy nhiên, do địa hình rừng núi và công suất loa của ta yếu nên không lấn át được đài địch ra rả suốt ngày.
Sau cuộc tấn công của quân Trung Quốc, cuộc sống đồng bào các dân tộc thiểu số ở biên giới bị đảo lộn thời gian dài nên gặp nhiều khó khăn. Nhiều gia đình mất hết nhà cửa, tài sản, phải sơ tán về phía sau. Có gia đình bị lính Trung Quốc giết chết gần hết. Tuy nhiên, bà con rất sẵn lòng ủng hộ, tạo điều kiện cho bộ đội chiến đấu. Nhiều gia đình đón bộ đội về ở tạm khi chưa làm kịp lán trại; nhường cả ruộng nương, vườn tược cho bộ đội làm trận địa. Các Hội mẹ chiến sĩ, các đoàn thể thường xuyên đến thăm hỏi, động viên bộ đội sau mỗi trận chiến đấu. Hội phụ nữ tỉnh Hà Giang tiêu biểu nhất trong phong trào này. Tình đoàn kết quân dân ấy đã giúp cho các đơn vị củng cố vững chắc thế trận để chống trả quân xâm lược.
Nhớ về biên cương phía bắc, tôi lại nhớ những đồi hoa sim tím, những chiến sĩ dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc và nhớ tấm lòng của bà con các dân tộc ở biên giới với tình đoàn kết quân dân.
Bùi Đức Toàn
(Nguyên PV báo QĐND)
Dẫn lại từ Petro Times

1979 - Cuộc chiến không thể lãng quên


(PetroTimes) - Cách đây 35 năm, vào ngày 17/2/1979, Trung Quốc đã đưa hàng chục vạn quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới trên bộ giữa hai nước. Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, tiến hành cuộc chiến đấu ngoan cường bảo vệ biên giới phía Bắc.
Cuộc chiến tranh diễn ra trong vòng 1 tháng nhưng đã gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cho cả hai nước, đặc biệt là hậu quả lâu dài đối với quan hệ hữu nghị giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Để làm rõ bản chất, sự thật lịch sử, tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc; đấu tranh bác bỏ những luận điệu tuyên truyền sai trái, xuyên tạc sự thật của các thế lực thù địch, chúng tôi chuyển đến bạn đọc những nét chính về cuộc chiến tranh này. Qua đó để tôn vinh công lao, sự hy sinh to lớn của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc; cổ vũ tinh thần yêu nước, truyền thống hào hùng của dân tộc, ý chí tự lực tự cường, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, giữ gìn và thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị láng giềng Việt – Trung với phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt; không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc, lợi ích lâu dài giữa hai dân tộc.
Thông qua sách báo, tài liệu của Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác xuất bản từ năm 1979 đến 2009, bạn đọc sẽ thấy được diễn biến và hậu quả của cuộc chiến tranh 1979:
5 giờ sáng ngày 17/2/1979, lực lượng Trung Quốc khoảng 120.000 quân bắt đầu tiến vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là xe tăng và bộ binh. Cánh phía đông có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Nam Ninh và mục tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến vào Cao Bằng và Đông Khê. Ngoài ra còn có quân đoàn 55A tiến từ Phòng Thành vào Móng Cái.
Cánh phía tây có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mông Tự, có 3 hướng tiến công chính. Hướng thứ nhất do các quân đoàn 13A và 11A dẫn đầu đánh từ vào thị xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do sư đoàn 42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu. Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm, các khu vực dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là Lào Cai, Mường Khương, Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái.
Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân Trung Quốc vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công, lại còn có "lực lượng thứ năm" gồm những người Việt gốc Hoa trên đất Việt Nam. Từ đêm 16 tháng 2, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng thứ năm" này lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn quân tiếp viện của Việt Nam từ phía sau lên. Trước giờ nổ súng, các lực lượng này cũng bí mật cắt các đường dây điện thoại để cô lập chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo.
Tiến đánh nhanh lúc khởi đầu nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm tốc độ do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần lạc hậu phải dùng lừa, ngựa và người thồ hàng. Hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới khá mạnh, với các hầm hào hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là Trung Quốc phải chịu thương vong lớn. Trong ngày đầu của cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người của Trung Quốc đã có kết quả, họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam hơn 10 dặm và chiếm được một số thị trấn. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường Khương ở tây bắc và Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị (Lạng Sơn), Thông Nông (Cao Bằng) ở đông bắc. Quân Trung Quốc cũng đã vượt sông Hồng và đánh thẳng vào Lào Cai.
Sang ngày 18 và 19/2, chiến sự lan rộng hơn. Việt Nam kháng cự rất mạnh và với tinh thần chiến đấu cao. Quân Trung Quốc hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ và thay đổi chiến thuật. Họ tiến chậm chạp, giành giật từng đường hầm, từng điểm cao, và cuối cùng cũng chiếm được Mường Khương (Hoàng Liên Sơn), Trùng Khánh (Cao Bằng), và Đồng Đăng (Lạng Sơn). Tại Móng Cái, hai bên giành giật dai dẳng. Cả hai bên đều phải chịu thương vong cao, có ít nhất 4.000 lính Trung Quốc chết trong hai ngày đầu này. Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm được 11 làng mạc và thị trấn, đồng thời bao vây Đồng Đăng, thị trấn có vị trí then chốt trên đường biên giới Trung-Việt.
Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận đánh ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc. Cụm điểm tựa Thâm Mô, Pháo đài, 339 tạo thế chân kiềng bảo vệ phía tây nam thị xã Đồng Đăng, do lực lượng của 2 Tiểu đoàn 4 và 6, Trung đoàn 12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn.
Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22/2. Ngày cuối cùng tại Pháo đài Đồng Đăng, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa học vào các lỗ thông hơi, làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.
Đến 21/2, Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đoàn và tiếp tục tấn công mạnh hơn nữa. Ngày 22, các thị xã Lào Cai và Cao Bằng bị chiếm. Quân Trung Quốc chiếm thêm một số vùng tại Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh. Chiến sự lan rộng tới các khu đô thị ven biển ở Móng Cái. Về phía Việt Nam, cùng lúc với việc triển khai phòng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập một tuyến phòng ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.
Ngày 26/2, thêm nhiều quân Trung Quốc tập kết quanh khu vực Lạng Sơn chuẩn bị cho trận chiến đánh chiếm thị xã này. Sau khi thị sát chiến trường, Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đề xuất điều động một quân đoàn từ Campuchia cùng một tiểu đoàn pháo phản lực BM-21 vừa được Liên Xô viện trợ về Lạng Sơn. Đồng thời tổ chức và huy động lại các đơn vị và các phân đội, biên chế lại một sư đoàn vừa rút lui từ chiến trường, tiến hành các hoạt động tác chiến vào sâu trong hậu phương địch.
Phi đoàn máy bay vận tải An-12 của Liên Xô đã lập cầu hàng không, chở Quân đoàn 2, Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Campuchia về Lạng Sơn.
Ngày 25/2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 (Binh đoàn Chi Lăng) thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các Sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ Quân khu 4 ra) và sau này có thêm Sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.
Trong giai đoạn đầu đến ngày 28/2/1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có chiến thuật lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng. Quân đội Việt Nam còn phản kích, đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung Quốc, nhưng chỉ có ý nghĩa cảnh cáo Trung Quốc.
Lạng Sơn - những trận chiến quyết tử
Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27/2. Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng, và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía đông nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện.
Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3 và 337 của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Từ ngày 2/3, Sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư đoàn 3 chống trả lại 3 sư đoàn bộ binh 160, 161, 129 cùng nhiều xe tăng, pháo của Trung Quốc, tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã Hồng Phong, huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu, huyện Cao Lộc.
Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng tây bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, 1 tiểu đoàn Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị chọc thủng.
Chiếm được điểm cao 800 và ga Tam Lung nhưng trong suốt các ngày từ 28/2 đến 2/3, quân Trung Quốc vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy chúng đã dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh. Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn mà có trận, quân phòng thủ Việt Nam chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2 tháng 3, sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng. Chiều ngày 4/3, một cánh quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị xã.
Đến đây, phía Việt Nam đã điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tập kết sau lưng Quân đoàn 14.
Trung Quốc buộc phải rút quân
Ngày 5/3/1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân. Lúc đó, tại mặt trận Lạng Sơn, phía Việt Nam đã bày binh bố trận rất bài bản, chuẩn bị phản công trên quy mô lớn, đánh hiệp đồng quân binh chủng. Nếu không rút quân đúng thời điểm này thì quân Trung Quốc sẽ thiệt hại rất lớn, nhận hậu quả rất nặng nề, bị tiêu diệt gọn. Bởi lúc đó, Sư đoàn 337 của Việt Nam lên tham chiến từ ngày 2/3 tại khu vực cầu Khánh Khê ở Lạng Sơn để chi viện cho các đơn vị đang chặn đánh quân Trung Quốc. Nhưng 337 đến hơi muộn để thay đổi cục diện trận đánh tại Lạng Sơn. Tuy nhiên, Sư đoàn 337 đã cùng sư đoàn 338 tổ chức phản kích, đánh duổi quân Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Ma.
Ngày 7/3, Việt Nam tuyên bố thể hiện "thiện chí hòa bình", sẽ cho phép Trung Quốc rút quân.
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân nhưng chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi dọc biên giới 6 tỉnh phía Bắc.
Ngày 18/3/1979, Trung Quốc rút hết quân khỏi biên giới Việt Nam.

PV
(Theo Petrotimes)

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

“Biển Đông vạn dặm giang tay giữ”

http://www.baomoi.com/Bien-Dong-van-dam-giang-tay-giu/122/13064585.epi

Lao Động  - 11/02/2014 08:31

Cùng với những di ngôn của Tổ tiên coi trách nhiệm gìn giữ giang sơn của Tổ quốc là trách nhiệm truyền đời của mọi con dân nước Việt bất kỳ ở thời đại nào, tôn thờ học thuyết hay tôn giáo nào cũng đều là hệ trọng hơn cả.

Các đại biểu trong lễ tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh tại Quần đảo Trường Sa trên tàu Khánh Hòa (Quần đảo Trường Sa) tháng 4.2013. Ảnh: Y.T
Trong lịch sử và tâm thức người Việt chỉ một chút lụy bước trước ngoại bang đều bị lên án. Bài học đặt ngai vàng dòng họ lên trên nền tự chủ quốc gia như tập đoàn Lê Chiêu Thống muôn đời bị coi là vết nhơ trong sử sách. Những lầm lỡ trong đối sách với ngoại bang để mất đất vào tay quân xâm lược như Thượng thư Phan Thanh Giản, dù có tự xử bằng tính mạng của mình thì ngay cả với một người vốn được trọng vọng vì học vấn và sự thanh bạch cũng không dễ được người đời sau chiêu tuyết.
Vì thế mà nỗi nhức nhối xảy ra từ bốn thập kỷ trước (1974) liên quan đến cuộc xâm lăng của quân đội Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa càng ngày càng làm sâu sắc hơn bài học giữ nước mà ông cha ta đã đúc kết không chỉ là sức mạnh của tàu bè, vũ khí mà quan trọng hơn hết lại chính là sự đoàn kết, tụ tâm của toàn dân.
Dù 40 năm qua, Trung Quốc đã chiếm đóng, đã lập thành một thành phố với bao nhiêu thủ đoạn để biến một chuyện “đã rồi” từ cái lý của kẻ mạnh thành chủ quyền “cốt lõi” thì không chỉ trong ký ức mà trong cả tâm thức của người Việt Nam, mãi mãi Hoàng Sa vẫn là một di sản thiêng liêng của Cha Ông, một bộ phận thiêng liêng của lãnh thổ của quốc gia Việt Nam hiện tại.
Cho dù sau khi chiếm đóng, Nhà nước Trung Quốc đã huy động nhiều nguồn tài lực và học giả, để cố chứng minh quần đảo Hoàng Sa (và cả Trường Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc thì cuộc động binh xâm lược cách đây 40 năm tự nó đã là một sự thật phơi bày mà toàn thế giới được chứng kiến. Và việc Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau này bê nguyên cái di sản của Nhà nước Trung Hoa Dân quốc tự vẽ vào năm (1948), vào thời điểm sắp bị trục ra khỏi đại lục trong cuộc nội chiến Quốc - Cộng, làm cơ sở để biện bác cho hành động xâm lược của mình khi đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1974, cũng như những hành động bằng vũ lực chiếm đóng một số đảo trong khu vực quần đảo Trường Sa sau đó, chỉ càng cho thấy tính phi lý của một quốc gia chỉ cậy mình là nước lớn hành xử bất chấp sự thật lịch sử và luật pháp quốc tế.
Là quốc gia có một nền văn minh lớn, sở hữu một di sản thư tịch cổ phong phú thuộc bậc nhất hoàn cầu, nhưng phía Trung Quốc cho đến nay vẫn không thể đưa ra được những bằng chứng lịch sử xác đáng mà chỉ đưa ra những khẳng định mơ hồ không đủ sức thuyết phục.
“Di vật chí” là bằng chứng thư tịch được Trung Quốc cho là tài liệu thành văn xưa nhất từ thời Đông Hán (23 - 220), như tên gọi chỉ là một sách chép những “vật lạ” trong đó có dòng viết về vùng biển “Trường Hải” nào đó có nhiều đá ngầm gập ghềnh, lúc nước cạn thì đá có tính nam châm (Trường Hải kỳ đầu thủy thiển nhi đa từ thạch), để rồi vận luôn “Trường Hải” chính là Tây Sa và Nam Sa (theo địa danh của Trung Quốc dùng để chỉ Hoàng Sa và Trường Sa). 
Rồi họ buộc phải dùng cả loại sách viết về những việc nằm ngoài biên cương của mình như “Lĩnh ngoại đại đáp” của Chu Khứ Phi viết vào đời Tống (960 - 1279) nói về các vùng lãnh thổ mà Trung Quốc tự cho là “chư phiên” để coi các nước đó cũng là “chư hầu” của mình, như “Giao Chỉ”, “Chiêm Thành” hay “Chân Lạp” để chứng minh những gì liên quan đến các nước này, trong đó có cả các quần đảo ở ngoài Biển Đông mà họ gọi là “Trường Sa Vạn lý Thạch đường” đến bấy giờ vẫn là của Trung Quốc.
Họ bất chấp hiện tại các địa danh ấy ngày nay đã là một bộ phận của một quốc gia độc lập có chủ quyền, có quan hệ ngoại giao đầy đủ với Trung Quốc, thậm chí đang có mối quan hệ chiến lược, cùng chung “16 chữ vàng” cũng như “bốn tốt” và quốc gia ấy đang tồn tại độc lập trong cộng đồng quốc tế là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tư duy Thiên triều không lẽ vẫn còn tồn tại trong một quốc gia đang trỗi dậy nhưng đã trở thành một cường quốc quan trọng đòi hỏi có một tinh thần trách nhiệm tỉ lệ thuận với vị thế ấy!
Sách này viết vào đời Tống, nhưng ai đọc sử của cả Trung Quốc và Việt Nam đều biết rằng, nhà Tống ở Trung Hoa được lập vào năm 960, thì từ trước đó hơn hai thập kỷ, năm 938 sau Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền thì nền tự chủ của Đại Việt đã được xác lập trên nền tảng một quá trình đã diễn ra từ trước đó gắn với tên tuổi của Khúc Thừa Dụ (905), rồi Dương Đình Nghệ (931)... Và nếu ngược xa hơn nữa, trước khi bị đế chế Hán xâm lược và đô hộ nước ta trong hơn một thiên niên kỷ, thì dân tộc ta đã có cả một thời dựng nước vẻ vang gắn liền với thời đại các Vua Hùng. 
Đáng tiếc là tư duy tự cho mình là “thiên triều”, “bá chủ” của thời quân chủ vẫn tồn tại nước Trung Hoa hiện đại để coi sự đô hộ của mình đối với các quốc gia khác trong quá khứ xa xưa vẫn là căn cứ để khẳng định chủ quyền của mình ở thế kỷ XXI này đối với Biển Đông? Đã có một học giả Trung Quốc hiện đại, ông Lý Lệnh Hoa thuộc Trung tâm Thông tin Hải Dương của quốc gia này đưa ra nhận xét: “Nói đến quyền lợi ở Nam Hải, chúng ta (tức của Trung Quốc - DTQ) thường thích nói một câu là: Từ xưa đến nay thế này, thế nọ, có lúc hứng lên còn thêm vào hai chữ “thiêng liêng”... nhưng chứng cứ thật sự có tính thuyết phục chính là sự kiểm soát thực tế. Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh từng quản lý nó chưa? Người ở đó đã từng phục tùng sự quản lý của anh không?
Có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi đó đều là “có” thì anh thắng là điều chắc, ở Nam Sa (tức Trường Sa - DTQ) chúng ta không có được điều đó...”. Học giả này còn chủ động đưa ra những bằng chứng để chứng minh rằng, cho đến đời Thanh thì Trung Quốc chưa hề thực thi quyền quản lý tại những quần đảo này và trái lại, Việt Nam đã thể hiện được cái quyền đó từ trước. Các tấm bản đồ xuất bản cho tới triều nhà Thanh cũng cho thấy điều đó...
Ngay công trình khảo sát đảo Phú Lâm (mà Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng) trong Quần đảo Hoàng Sa bị quân đội Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1956 (vào thời điểm quân Pháp vừa chịu thất bại trên chiến trường Đông Dương) đã ghi nhận rằng, tại đó đã có một ngôi chùa của người Việt Nam dựng từ thời Minh Mạng. Đó cũng là điều mà bộ chính sử “Đại Nam Thực lục” của triều Nguyễn ghi rất rõ việc người đứng đầu triều đình Việt Nam giao cho Bộ Công và huy động tài lực của hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi đưa người và vật liệu ra đảo để xây dựng.
Trong khi đó, những bằng chứng thể hiện chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử có thể thấy được qua rất nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Từ những ghi chép trên hải trình, bản đồ của các tàu biển của phương Tây đi lại trên tuyến đường hàng hải tấp nập đi lại trên hành lang rất an toàn so với trình độ hàng hải thuở đó, được tạo nên bởi bờ biển “Cochinchine” (Đàng Trong - dọc biển các tỉnh Nam Trung Bộ) hoặc trước đó là “Ciampa” hay “Campa” (Chiêm Thành) ở phía Tây và các đảo dải san hô có tác dụng chắn sóng của các quần đảo nay được Việt Nam định danh là Hoàng Sa và Trường Sa, mà người Tây phương ghi chú trên bản đồ là “Spratly” và “Paracel”.
Mọi ghi chép từ quan sát cho đến việc phải thực thi những giao dịch đều liên quan đến các cơ quan quản lý của Nhà nước Đại Việt của thời Lê và sau này là Đại Nam của triều Nguyễn... Ai cũng biết, chỉ một bạn trẻ đang học tập tại Mỹ, vì tinh thần yêu nước, chịu tìm tòi trong các thư viện, các cơ quan lưu trữ cũng có thể phát hiện và đóng góp cho đất nước rất nhiều bản đồ cổ có xuất xứ từ nhiều quốc gia minh chứng về sự gắn bó với nước ta từ xa xưa.
Trong khi đó, những thư tịch của Việt Nam, đặc biệt từ thời Lê về sau này rất phong phú. Còn trước thế kỷ XV thì đa phần thư tịch hay các bằng chứng khác đã bị giặc Minh tàn phá, thủ tiêu hay đưa về Trung Quốc trong hai thập kỷ đô hộ Đại Việt. Từ những bản đồ (cho đến nay được coi là sớm nhất còn giữ được) trong sách “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” được Đỗ Bá soạn vẽ ở cuối thế kỷ XVII với địa danh viết bằng chữ Nôm là “Bãi Cát Vàng” cho đến những đoạn ghi chép rất cụ thể trong sách “Phủ Biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII).
Có nhiều văn bản gốc hay các đoạn viết trong thư tịch, những chỉ lệnh của các chúa Nguyễn hay sau này là triều đình Huế giao cho các ngư dân hay các đơn vị đi biển ở các địa phương theo lệnh triều đình ra hoạt động ở vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Rồi bộ địa chí của triều Nguyễn, bản đồ thời Minh Mạng... cũng như sau này là các văn bản pháp lý của chính quyền thuộc địa, các chế độ chính trị kế tiếp quản lý vùng lãnh thổ này như chính thể Quốc gia của Bảo Đại hay chính thể Việt Nam Cộng hòa thể hiện quyền quản lý thực tế hai quần đảo này một cách liên tục, trong đó có nhiều hoạt động được đăng ký với các tổ chức quốc tế như hải đăng, các trạm vô tuyến hàng hải, khí tượng... Và từ sau khi nước Việt Nam thống nhất (1975 - 1976) là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Với một cách tiếp cận khác, có cả những tài liệu do chính người Trung Quốc viết trong đó lại xác nhận chủ quyền của Việt Nam ví như sách “Hải ngoại ký sự” của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán viết từ cuối thế kỷ XVII (1695) cũng đã thuật lại những điều mình đã chứng kiến khi đến nước ta. Đó là việc các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã tổ chức các đội thuyền binh ra Hoàng Sa và Trường Sa (gọi chung là “Vạn Lý Trường Sa” tựa như bản đồ thời Minh Mạng ở đầu thế kỷ XIX) để “thu lượm vàng bạc, khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào” rất khớp với những gì thư tịch Việt Nam đều ghi chép lại...
Vì vậy mà những gì đã diễn ra trên Biển Đông với lối “cả vú lấp miệng em” hay “lấy thịt đè người” qua những hành động dùng vũ lực thô bạo xâm lược rồi chiếm đóng lãnh thổ do nước khác đã quản lý, trong đó có sự kiện Hoàng Sa cách đây 40 năm cũng là những gì Trung Quốc hiện tại đang tiếp tục hành xử trong khi vẫn luôn nói về Luật Biển, thương lượng hay tôn trọng xây dựng các cam kết khu vực.
40 năm qua với những gì diễn ra trên Biển Đông cho tới ngày hôm nay, đặc biệt là với những diễn biến nguy hiểm từ việc sử dụng sức mạnh vũ lực tiếp tục xâm lược và chiếm đóng một số hòn đảo ở Trường Sa, trong đó có sự kiện chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam (1988), cũng như những diễn biến gần đây trong việc cụ thể hóa “cái lưỡi bò” mơ hồ bằng những đòi hỏi rất cụ thể và thô bạo cho rằng đó là biện pháp để thể hiện chủ quyền “cốt lõi” của mình, mà mới đây nhất là bắt ngư dân các nước phải xin phép chính quyền Trung Quốc một cách ngang ngược và phi lý... càng làm cho nhân dân ta củng cố lại những nhận thức lịch sử.
Ý chí kiên quyết bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cũng như thể hiện lòng mong muốn xây dựng sự hòa hiếu với mọi quốc gia, đặc biệt là với Trung Quốc vốn có nhiều hệ lụy lịch sử, đưa ra những giải pháp hòa bình để bảo đảm môi trường an ninh trong khu vực có liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ... để cùng nhau phát triển nhưng cũng không bao giờ quên cảnh giác từ những bài học của quá khứ.
Và từ “sự kiện Hoàng Sa 1974”, người Việt Nam chúng ta càng thấm thía cái bài học lịch sử vô cùng sâu sắc mà cha ông ta đã đúc kết trong hành trình đầy thử thách dựng nước và giữ nước. Bài học đó là: Khi nào dân tộc Việt Nam biết đoàn kết thì giữ được nước và mất đoàn kết thì sẽ có nguy cơ mất nước.
Trong những ngày này, chúng ta nhận thấy không chỉ có những nỗ lực của Nhà nước trong các hoạt động ngoại giao và quốc phòng, để bảo vệ và bảo đảm gìn giữ chủ quyền hiện tại và đấu tranh để khẳng định và đòi hỏi những phần lãnh thổ biển đảo của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực, mà các tầng lớp nhân dân ta ôn lại những bằng chứng lịch sử để củng cố niềm tin vào cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình.
Có những dấu hiệu đáng mừng khi nhận thức lịch sử không chỉ sâu sắc hơn đối với các bằng chứng xa xưa của Tổ tiên mà với cả những sự kiện mới diễn ra cách đây chưa đầy một nửa thế kỷ, vào thời điểm đất nước còn tạm thời bị chia cắt, những việc làm cũng như sự hy sinh của những người Việt Nam, trong đó có những binh sĩ Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ trên biển đảo của Tổ quốc cũng đã được nhân dân cả nước ghi nhận như một nghĩa cử thiêng liêng của con dân nước Việt bất kể ở thời đại nào, chế độ chính trị nào.
Rất tự nhiên, chính “sự kiện Hoàng Sa” lại trở thành mối dây hàn gắn và kết nối, vượt qua những mặc cảm đã từng nảy sinh trong quá khứ để hướng tới tương lai, tăng cường hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc.
Năm nay nhân tưởng niệm những sự kiện chứa đựng các bài học đổi bằng xương máu như 40 năm Hoàng Sa, 25 năm cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới ở cả hai vùng Tây Nam giúp Campuchia diệt chế độ diệt chủng Pol Pot và phía Bắc đẩy lùi quân xâm lược Trung Quốc xâm phạm biên giới vào lãnh thổ nước ta... chúng ta càng thấu hiểu cái nguyên lý “máu người không phải là nước lã” để không bao giờ được quên lãng những hy sinh của nhân dân trong quá khứ.
Cái nguyên lý ấy cũng đòi hỏi những người lãnh đạo quốc gia phải quan tâm hơn nữa để gây dựng và vun đắp mối quan tâm cùng sự đồng thuận trong khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng như gây dựng mối quan hệ hòa hiếu với thiên hạ.
Cách đây gần hai chục năm, vào dịp ngành khảo cổ học tổ chức tổng kết chương trình khai quật biển, đảo, tôi đã đặt câu hỏi với vị Phó Thủ tướng đương thời về việc đánh giá như thế nào đối với những người lính Cộng hòa đã tử trận trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974. Câu trả lời còn dè dặt (dễ thông cảm): Hành xử của họ là yêu nước và vì nước. Hãy tôn vinh họ như cách làm truyền thống là thờ phụng trong các đền đài như ông cha ta đã làm. Giờ đây, tại sao không coi họ như những liệt sĩ có khác gì những chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam và đồng bào ta đã ngã xuống trên những chiến trường bảo vệ biên cương của Tổ quốc cách đây 35 năm (1979)? Cũng là máu của con Hồng cháu Lạc!
Hoàng Sa mãi mãi hiển hiện trong tâm thức của người Việt Nam chúng ta như những bài học khắc nghiệt của quá khứ để cùng nhau phấn đấu hướng tới tương lai, trong đó có cả tương lai như đã từng có trong quá khứ trước sự kiện diễn ra 40 năm về trước khi mà Hoàng Sa chưa bị xâm lăng, mà giờ đây chúng ta kỷ niệm như một lời nhắc nhủ.
Dẫn lại từ Báo Lao động