Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Một gia đình người Vân Kiều có 3 con vào đại học

(Dân trí) - Nói về tinh thần hiếu học của người dân tộc Vân Kiều ở Quảng Bình, ai cũng trầm trồ về gia đình ông Hồ Thạch ở bản Cẩm Ly, xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy, bởi vợ chồng ông là người duy nhất có 3 người con học đại học.

Quyết nuôi con ăn học để thoát nghèo
Qua lời giới thiệu của ông Phạm Văn Thái - Chủ tịch Hội Khuyến học xã Ngân Thủy, chúng tôi được biết đến gia đình ông Hồ Thạch (53 tuổi) và bà Hồ Thị Thời (50 tuổi), người Vân Kiều ở bản Cẩm Ly, xã Ngân Thủy có 3 người con đã tốt nghiệp đại học, hiện đã có công ăn việc làm ổn định.
Ông Thạch và bà Thời cưới nhau năm 1978 và có 6 người con. Lớn lên, các con ông bà đều ngoan hiền, chăm chỉ học hành và học giỏi. “Hai vợ chồng luôn tự hứa với nhau “đồng cam cộng khổ”, khó đến mấy cũng phải nuôi con học hành đến nơi đến chốn để mong sao các con sớm thoát nghèo”, ông Thạch chia sẻ. Nghĩ vậy nên dù khó khăn đến mấy vợ chồng ông cũng quyết đầu tư cho con ăn học.
 
Một gia đình người Vân Kiều có 3 con vào đại học
Vợ chồng ông bà Thạch đã vất vả, lam lũ làm đủ nghề và tằn tiện từng đồng để nuôi con cái ăn học nên mới có "mùa quả ngọt" như ngày hôm nay.
 
Để có tiền chu cấp cho các con học tập, vợ chồng ông Thạch vừa tự học hỏi phương thức phát triển kinh tế hộ gia đình, vừa đi làm thuê, làm mướn cho người khác. Nhưng đối với vợ chồng ông Thạch, tất cả những việc làm đó đều hướng tới một mục đích và khát vọng lớn lao là mong muốn các con được học hành nên người.
 
“Từ bao đời nay, các gia đình người Vân Kiều đều gắn với nương rẫy, hạt lúa, củ khoai, cuộc sống khó khăn trăm bề. Đời bố mẹ dù đã làm việc cật lực nhưng vẫn không thoát khỏi cái đói, cái nghèo, đến đời con, đời cháu cũng vậy. Cái khổ “truyền kiếp” chính là do không được học hành đến nơi đến chốn. Chỉ có học hành mới mong thoát khỏi đói nghèo được thôi”, vợ chồng ông Thạch trải lòng tâm sự.
“Mùa quả ngọt” đến với đôi vợ chồng nghèo
Và những mong ước của vợ chồng ông Thạch cuối cùng cũng đã được đền đáp bởi những người con chăm ngoan, học giỏi. Sau nhiều năm miệt mài đèn sách, những người con của ông bà lần lượt đều vào giảng đường đại học. Đầu tiên là chị Hồ Thị Dân (SN 1983) đậu trường ĐH Y dược Huế. Tiếp đó là anh Hồ Manh (SN 1986) đã thi đậu vào Học viện Biên phòng. Noi gương các anh chị nên em Hồ Thị Hạnh (SN 1988) và Hồ Thị Na (SN 1993) cũng lần lượt vào học Trường ĐH Sư phạm Huế và Trường Trung cấp Y Quảng Bình.
 
Một gia đình người Vân Kiều có 3 con vào đại học
Chị Hồ Thị Hạnh (con gái thứ tư của vợ chồng ông Thạch) hiện đang là giáo viên Trường TH và THCS Ngân Thủy (huyện Lệ Thủy, Quảng Bình).
 
Sau khi ra trường, các con ông bà đều có công việc ổn định. Trong số đó, đã có 4 người vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Anh Hồ Manh hiện là Đội trưởng Đội vận động quần chúng, Đồn Biên phòng 597 thuộc Bộ Chỉ huy BĐBP Quảng Bình. Chị Hồ Thị Dân đang công tác tại Trạm Y tế xã Ngân Thủy. Chị Hồ Thị Hạnh hiện đang công tác tại Trường TH&THCS Ngân Thủy. Người chị cả là Hồ Thị Nhanh hiện là Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Ngân Thủy. Riêng em Hồ Thị Na cũng đang tiếp tục hoàn thành chương trình học và chuẩn bị tốt nghiệp.
 
Sau khi con đã thành đạt, ông Hồ Thạch mới dám thở phào nhẹ nhõm và bắt đầu nghĩ đến chuyện tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương. Năm 1995, ông được người dân tín nhiệm bầu làm cán bộ địa chính xã. Từ năm 2000 đến nay, do nhu cầu công việc cũng như tuổi tác, ông chuyển sang làm Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ xã Ngân Thủy. Dù ở cương vị nào, ông cũng luôn hết mình vì công việc chung và xem đó trách nhiệm đối với bà con dân bản, với quê hương.
 
Chị Hồ Thị Dân hiện đang là bác sỹ tại Trạm Y tế xã Ngân Thủy
Chị Hồ Thị Dân hiện đang là bác sỹ tại Trạm Y tế xã Ngân Thủy
“Những năm gần đây, Đảng, Nhà nước đã quan tâm rất nhiều tới bà con miền núi nên đời sống của bà con đã được cải thiện hơn nhiều. Dù vậy nhưng mình cũng phải biết vượt khó vươn lên chứ không thể trông chờ vào trợ cấp mãi như thế được. Người dân đã tín nhiệm bầu mình để giúp đỡ bà con thì mình cũng phải cố gắng hoàn thành cho tốt. Một khi bà con còn đói, còn khổ là mình chưa hoàn thành nhiệm vụ”, ông Thạch tâm niệm.
Lê Đăng Đức

Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2012

Đêm trắng trên đường 20 - Kỳ 3: Con gái của liệt sỹ đường 20, 40 năm mới biết

(QBĐT) - Tham gia xây dựng, sống, chiến đấu rồi thanh thản nằm lại trên đường 20  Quyết Thắng là các lực lượng: bộ đội, TNXP, dân công hỏa tuyến… Các anh chị hy sinh khi tuổi đời chỉ mới mười tám đôi mươi. Với riêng tám TNXP hy sinh tại hang Tám Cô, trong tâm thức tôi vẫn cứ đinh ninh họ chưa có ai lập gia đình trước khi lên đường nhập ngũ. Nhưng 40 năm sau ngày các anh chị mất (14- 11- 1972- 14- 11- 2012), trong những đêm trắng với đường 20, tôi tiếp nhận được một nguồn tin rất quý giá: trong số họ, một người kịp để lại hậu phương cô con gái nhỏ chỉ mới 5 tháng tuổi, trước khi vào chiến trường.
Xóm Vạn, thôn Trù Ninh, xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa một ngày đầu tháng 11, cả thôn, cả xã đang chạy đua cùng thời gian ra đồng để làm đất, chăm sóc cây vụ đông sau khi cơn bão Sơn Tinh tràn qua Thanh Hóa hồi tháng 10. Đang giữa trưa, điện thoại nhà ông Nguyễn Mậu Mật đổ chuông gấp gáp. Đầu dây bên kia, tiếng Quảng Bình nằng nặng hỏi: “Có phải nhà của bác Mật?”. “Phải!”. “Bác Mật em trai của liệt sỹ Nguyễn Mậu Kỷ, hy sinh trên đường 20 ở tỉnh Quảng Bình?”. “Đúng rồi!”- ông Mật khẳng định.
Tôi đã liên hệ được với thân nhân liệt sỹ Nguyễn Mậu Kỷ qua sóng điện thoại như thế. Trước khi bấm máy gọi đi, tôi lại vào hang Tám Cô thắp hương khấn nguyện: “Các anh, các chị có linh thiêng, liệt sỹ Kỷ ơi! mong anh phù hộ cho em liên lạc được với gia đình, thân nhân của anh để biết hiện tại ai còn, ai mất, con gái anh bây giờ ra sao”. Cho đến khi đường dây liên lạc thông, không thể nào tả hết được hết cảm giác vui mừng.
Viếng các anh hùng liệt sỹ tại Đền tưởng niệm  các Anh hùng liệt sỹ đường 20 Quyết Thắng.
Viếng các anh hùng liệt sỹ tại Đền tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ đường 20 Quyết Thắng.
Ông Nguyễn Mậu Mật là em trai út của liệt sỹ Nguyễn Mậu Kỷ. Ông kể: “Gia đình tôi hồi đó có 5 anh chị em, gồm 2 trai, 3 gái, bác Mật là con thứ hai và là trai đầu. Trước khi vào Nam, bố mẹ tôi kiên quyết bắt bác ấy phải lấy vợ. Mặc dù trong thâm tâm không muốn vướng bận chuyện gia đình nhưng bác Kỷ cũng gật đầu cho bố mẹ yên lòng. Ngày ấy, lớp lớp thanh niên, thanh nữ trong làng ra đi, có mấy ai trở về. Bác Mật sợ vào chiến trường, bom đạn ác liệt thế, biết sống chết thế nào, chỉ tội cho người thân nơi quê. Vợ bác Mật tên Nguyễn Thị Chờ, cô thôn nữ trong làng. Hai người về sống với nhau sau đám cưới đơn sơ. Rồi hạnh phúc như được nhân đôi khi cháu gái đầu lòng của anh chị ra đời. Họ đặt tên cho cháu là Nguyễn Thị Thanh”.
Năm 1970, khi cháu Thanh tròn 5 tháng tuổi, Nguyễn Mậu Kỷ khoác ba lô, từ biệt người thân, gia đình, đứa con gái bé bỏng đang còn ẵm ngữa trực chỉ vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên đường 20. Hai năm sau, anh ngã xuống nơi hang Tám Cô cùng với bảy liệt sỹ đồng hương của mình.
Ông Mật qua mấy chục năm biết nơi anh trai mình hy sinh cũng đã có 5 chuyến ngược vào Quảng Bình, đến hang Tám Cô trên đường 20. Tôi băn khoăn là vì sao 40 năm trôi qua mà câu chuyện liệt sỹ Nguyễn Mậu Kỷ có một người con gái lại ít người biết đến thì ông Mật nghẹn ngào: “Có kịp nói cho ai ở Quảng Bình biết đâu chú. Một phần cũng do lỗi của chính tôi, mỗi lần vào thăm anh trai và đồng đội của anh do thời gian quá ít, kinh phí đi lại hạn chế nên có kịp nói cho ai. Vừa rồi, nhân chuẩn bị cho 40 năm ngày giỗ chung các liệt sỹ hang Tám TNXP và đại lễ truy niệm các Anh hùng liệt sỹ đường 20 Quyết Thắng, Đài truyền hình Việt Nam thực hiện bộ phim tài liệu “Huyền thoại một con đường” do nhà văn quân đội Chu Lai viết kịch bản và có mời thân nhân các liệt sỹ cùng vào Quảng Bình. Lúc này đoàn làm phim, các anh tại Ban quản lý Đền tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ đường 20 Quyết Thắng và chúng tôi mới có dịp ngồi lại với nhau, tâm tư, trao đổi với nhau... khi đó tôi mới có cơ hội giải bày”.
Viên đá có hình ngôi sao được đồng đội đưa từ Thanh Hóa  vào đặt trước cửa hang Tám TNXP
Viên đá có hình ngôi sao được đồng đội đưa từ Thanh Hóa vào đặt trước cửa hang Tám TNXP
Ba năm sau ngày liệt sỹ Nguyễn Mậu Kỷ mất, bà Nguyễn Thị Chờ tái giá. Còn con gái Nguyễn Thị Thanh lớn lên nơi miền quê nghèo thôn Trù Ninh, xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hóa, không một lần thấy được người cha của mình.
Người con gái của bố Kỷ khi xưa năm nay bước qua tuổi 42. Chị Nguyễn Thị Thanh thú nhận với tôi rằng: “Chị không thể nào hình dung được về bố. Thì chị mới 5 tháng tuổi, bố đi chiến trường rồi. Chỉ nghe mẹ, các các bác, các chú kể, bố dáng người thấp, gầy và đen”. Gia đình chị Thanh ở cách nhà chú Mật chừng 15 phút đi bộ, chị kể: “Nhà nghèo lắm! Kinh tế thuần nông với 6 sào đất vừa trồng lúa, vừa trồng hoa màu, chỉ đủ đắp đổi qua ngày”. Chị khoe, nhờ phúc của ông ngoại mà các con của chị ngoan hiền, học giỏi. Chị với chồng là anh Lê Quang Châu kết hôn năm 1990, con gái đầu Lê Thị Tâm đang theo học năm thứ ba, Trường đại học Luật Hà Nội, cháu trai năm nay học lớp 9.
Tôi thắc mắc: “Sao chị biết nơi bố mình hy sinh, bây giờ trở thành một địa danh nổi tiếng trên đường 20 cả nước đều biết mà không một lần vào thăm?”. Tiếng chị Thanh nghèn nghẹn: “Muốn lắm chứ em! Nhưng gia cảnh khó khăn quá, lo cho con cái ăn học đã đầu tắt mặt tối rồi, lấy đâu ra kinh phí mà vào Quảng Bình thăm cha. Mấy chục năm chị cứ đề xuất lên xã, lên huyện, lên tỉnh Thanh Hóa xin cho một lần đến hang Tám Cô, đến đường 20... rốt cuộc chỉ nhận được sự im lặng”.
Nghe chị Thanh nói tôi thấy xót xa dâng trào. Xa cách về mặt địa lý... hay sự lãng quên của thời gian, hay tại lòng người nguội lạnh nên chi 40 năm ngày anh Kỷ mất, con gái của anh để lại nơi hậu phương ngày nào nay mới có cơ hội lên tiếng.
Đêm trên đường 20 không tài nào ngủ được. Tiếng gà rừng te te gáy sang canh. Giường bên Lê Thanh Lương đã ngáy pho pho ngon lành. Trong ánh đèn dầu mờ mờ, tôi với tay cầm tờ báo cũ lên đọc. Trời ạ! Đập vào mắt tôi là bài thơ “Đợi anh về” của nhà thơ Xô- viết K. Ximônốp, bên góc trái là hình người phụ nữ bồng con ngóng về phía xa xăm đợi người trở lại: “Đợi anh, anh sẽ về/ Hãy đợi chờ anh nhé/ Hãy đợi, mặc dầm dề/ Mưa dăng buồn tái tê/ Hãy đợi, mặc tuyết giá/ Hãy đợi, dù nắng nôi/ Dù mọi người hết đợi/ Hôm qua quên lãng rồi/ Hãy đợi, dù xa ngái/ Chẳng tới một dòng thư/ Hãy đợi, dầu tất cả/ Đã chán chê đợi chờ... Đợi anh, anh sẽ về/ Chẳng sá gì chết chóc/ Mặc ai đó không ngờ/ Thốt lời: may được thoát...”.
                                                                     Theo Ngô Thanh Long/Báo Quảng Bình

Đêm trắng trên đường 20 - Kỳ 2: Chuyện kể trên đường 20

(QBĐT) - Trên con đường 20 huyền thoại, không chỉ với tôi, những ai đã đặt chân đến đây đều ám ảnh bởi con số 8 và những câu chuyện ray rứt lòng người: hang Tám TNXP, tám liệt sỹ TNXP hy sinh tại km16+ 200, buồng chuối trước cửa hang nở ra tám nải, tổ thằn lằn trong Đền tưởng niệm có tám quả trứng... Rồi cả chuyện tám tập thể, tám cá nhân của Binh trạm 14 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Những ngày tôi ở lại với các anh, các chị nơi đường 20, giữa khói hương bảng lảng, thêm một lần nữa tôi lại nghe núi rừng Trường Sơn trở mình.
>> Kỳ 1: Quá khứ và huyền thoại
Buổi chiều của 40 năm sau sự kiện tám liệt sỹ TNXP hy sinh tại km16+ 200, tôi kính cẩn thắp những nén hương ở Đền tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ (AHLS) đường 20 và hang Tám TNXP. Tâm lòng là ý lòng, tôi xin các anh chị linh thiêng phù hộ cho mình có chuyến đi giữa Trường Sơn được hanh thông, thuận lợi. Thắp hương tại Đền xong, tiếp tục ngược lên phía cửa khẩu Cà Roòng, điểm đến là ngôi miếu thờ liệt sỹ Nguyễn Thị Sặng mà mọi người thường gọi là miếu Y tá tại dốc Y tá, hang Y tá.
Đường 20 Quyết Thắng năm xưa nay đang trong quá trình thi công, mặt đường chông chênh đầy bùn đất, đá sỏi xuyên giữa rừng già. Một số đoạn cơ bản hoàn thành. Nguyễn Thị  Sặng viết đơn tình nguyện vào tuyến lửa Quảng Bình đầu năm 1972. Tại tấm bia đặt trong miếu Y tá ghi những dòng chữ trang trọng: “Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hang Y tá- Km 18 là một trong những tọa độ lửa trên đường 20 Quyết Thắng. Nơi đây, từ năm 1966 đến năm 1973, không quân Mỹ đã tập trung đánh phá cực kỳ khốc liệt. Đại đội 211 TNXP đã kiên cường bám trụ, chiến đấu hy sinh quên mình, bảo đảm thông suốt mạch máu giao thông, chi viện kịp thời sức người, sức của cho các chiến trường đánh thắng kẻ thù xâm lược thống nhất đất nước. Tại hang này, ngày 20- 6- 1972 đã chứng kiến sự hy sinh anh dũng của nữ liệt sỹ Nguyễn Thị Sặng”.
Mãi theo dòng suy nghĩ, tôi đi qua miếu Y tá lúc nào không hay. Đang chạy ngon trớn, chiếc xe chợt khựng lại, chết máy. Tiếp tục khởi động, đi thêm chừng trăm mét... lại chết máy, năm lần diễn ra như thế khiến tôi đâm hoảng. Quan sát địa thế một lúc, chợt giật mình... đã quá xa nơi chị Nguyễn Thị Sặng an nghỉ. Quay xe trở lại, thắp hương cho chị Sặng, sau đó  xuôi ra, chiếc xe máy không vấn đề gì, ngoan ngoãn trườn trên mặt đường lô nhô đá sỏi. Tôi đem chuyện này kể với anh Lê Thanh Lương, Trưởng ban quản lý di tích Đền tưởng niệm các AHLS đường 20, anh nửa đùa nửa thật: “Chị Sặng giận em đó, lên với chị nhiều rồi sao lần này lại quên. Giận, nhưng chị nhắc em quay lại. Nếu cái xe không chết máy, chắc chắn em sẽ vào sâu thêm. Đúng không?”. Tôi im lặng... quả đúng như vậy.
Thắp hương viếng liệt sỹ Nguyễn Thị Sặng tại miếu Y tá.
Thắp hương viếng liệt sỹ Nguyễn Thị Sặng tại miếu Y tá.
Lê Thanh Lương, quê quán xã An Thủy, Lệ Thủy gắn bó với Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng từ năm 1997. Hai năm nay anh được đơn vị cử vào phụ trách tại Đền tưởng niệm. Ban quản lý khu di tích chỉ có 7 người nhưng đảm nhận một khối lượng công việc khá nhiều, từ hướng dẫn khách tham quan, thuyết minh, đến bảo vệ, giữ gìn khuôn viên xanh- sạch- đẹp... nhưng quan trọng nhất vẫn là chăm lo hương khói cho các AHLS. Nhờ các anh mà Đền tưởng niệm quanh năm hương khói không bao giờ nguội lạnh.
Anh kể rằng: “Ngày đầu tiên vào với các AHLS đường 20, đêm đó một mình xuống hang Tám TNXP lấy một chiếc đèn dầu lên thắp cho đỡ hiu quạnh. Đèn đầy dầu, nhưng thắp được một chút thì tắt phụt, lần mò dậy khơi tim, châm lại, mới vừa ngả lưng xuống, đèn tiếp tục tắt. Nhiều lần như thế, đâm hoảng, tự hỏi mình đã xin phép các anh chị dưới ấy hay chưa? Rứa là dậy, cầm đèn trở xuống hang, thắp hương vọng bái. Từ đó chiếc đèn không còn tắt đột ngột nữa”.
Những câu chuyện kể nơi hang Tám TNXP và Đền tưởng niệm các AHLS đường 20 Quyết Thắng mang nặng yếu tố tâm linh và đều gắn liền với con số tám: Binh trạm 14 phụ trách đường 20 trong kháng chiến chống Mỹ có tám tập thể và tám cá nhân được tặng danh hiệu AHLLVT nhân dân; tiểu đội nữ tám TNXP phụ trách đoạn đường qua trọng điểm km16 trước đây nay để lại địa danh hang Tám TNXP; tám liệt sỹ cùng chung quê quán Hoằng Hóa (Thanh Hóa), nhập ngũ cùng đợt, tuy khác ngày sinh, tháng đẻ nhưng mất cùng nơi, cùng một lần; tổ thằn lằn trong Đền tưởng niệm có 8 quả trứng; cây chuối trước hang Tám TNXP nở ra tám nải...
Nhiều du khách trong nước cũng như quốc tế đến thăm đường 20 Quyết Thắng đều có chung một sự băn khoăn: “Vì sao gọi là hang Tám Cô khi tám liệt sỹ TNXP hy sinh ngày 14- 11- 1972 lại có bốn nam và bốn nữ?”. Câu trả lời hầu như chưa cởi được nút thắt này. Trở lại thời kỳ đầu mở đường 20, năm 1966 đến năm 1972, những CCB TNXP một thời nơi tuyến lửa Quảng Bình mà tôi từng tiếp xúc đều cho biết: lúc đó, bám trụ trên đường 20, lực lượng TNXP tổng động viên chủ yếu đến từ tỉnh Hà Nam Ninh (các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình bây giờ). Tám nữ TNXP chốt tại hang đá thuộc km16 trên đường 20 thời điểm này quê ở Hà Nam Ninh. Bộ đội, TNXP hành quân qua đây, ai đó gọi tên hang tám cô... Theo thời gian, theo khốc liệt của cả chiến tranh, tên gọi trở thành địa danh. Khi tám TNXP quê Hoằng Hóa, Thanh Hóa hy sinh tại hang đá này, đồng đội các anh, các chị không muốn đổi tên. 
Thời điểm diễn ra đại lễ kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Trường Sơn (19-5- 1959 - 19-5-2009), tập thể liệt sỹ tám TNXP hy sinh tại hang Tám Cô được truy tặng danh hiệu AHLLVT nhân dân, cây chuối rừng mọc trước cửa hang bỗng nhiên trổ hoa, hoa chuối đậu được tám nải rồi thôi. Mọi người bảo: mỗi nải chuối ứng với mỗi anh, mỗi chị... Lần thứ hai là vào mùa hè năm 2011, nhân dịp sắp xếp lại “nhà mới” cho các anh chị, cây chuối lại ra hoa, lần này đến 11 nải rồi thôi. Lê Thanh Lương nói: “Mười một nải chuối trùng khớp với số lượng mười một bát hương đặt tại hang Tám TNXP”. Và lần này là lần thứ ba, chuối rừng trước cửa hang tiếp tục ra hoa, vào dịp 40 năm ngày giỗ của các anh chị, nhân dịp UBND tỉnh Quảng Bình tiến hành đại lễ truy niệm các AHLS đường 20 Quyết Thắng.
Tôi đứng trước cửa hang Tám TNXP, nhìn hoa chuối rừng bung nở, màu đỏ như màu máu, màu cờ quyện lấy sắc vàng của đầu nhụy lấp lánh. “Cây chuối rừng như nhịp cầu nối liền người sống, người chết vậy đó anh”- Lê Thanh Lương bâng khuâng- “Mỗi lần có sự kiện chi trọng đại là y như rằng đơm hoa, kết quả... Đợt ni không biết được bao nhiêu nải đây?”. Ra đi từ làng quê nghèo, các liệt sỹ hy sinh tại hang Tám TNXP để lại cho cuộc đời chỉ là dòng lý lịch trích ngang ít ỏi: “Quê quán: Hoằng Hóa, Thanh Hóa; ngày hy sinh: 14- 11- 1972”. May mắn cho tôi là người được thấy di ảnh của hai liệt sỹ Nguyễn Văn Huệ và Lê Thị Mai. Thêm nữa... biết được một thông tin rất quý: trong số họ trước khi vào chiến trường một người đã kịp có nơi hậu phương một con gái vừa tròn 5 tháng tuổi.
                                                        Theo Ngô Thanh Long/Báo Quảng Bình

Kỷ niệm 40 năm ngày mất của các liệt sỹ tại hang Tám TNXP (14- 11- 1972- 14- 11- 2012) và Lễ truy niệm các anh hùng liệt sỹ Đường 20- Quyết Thắng:

Đêm trắng trên đường 20 - Kỳ 1: Quá khứ và huyền thoại

(QBĐT) - Sắp xếp công việc thường nhật, tôi khoác ba lô lên với Trường Sơn vào một sớm đầu tháng mười một. Chạm đường 20, lang thang dọc đường 20, những đêm trắng với đường 20... tôi đã “nghe” đại ngàn thì thầm kể về một thời chưa xa cha anh chúng tôi lên đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà hồn phơi phới dậy tương tai”.
Cách đây 6 tháng, tôi có dịp đi cùng với Thiếu tướng Phan Khắc Hy, nguyên Phó Tư lệnh Đoàn 559 và nhiều vị tướng, tá từng sống, chiến đấu trên những tuyến đường Hồ Chí Minh huyền thoại trở lại thăm chiến trường xưa nhân kỷ niệm 53 năm Ngày mở đường Trường Sơn (19- 5- 1959- 19- 5- 2012). Khi cùng đoàn dâng hương tại Đền tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ Đường 20, tướng Hy xúc động nói: “Con đường rọc ngang dãy Trường Sơn này chứa trong nó một quá khứ rất đỗi hào hùng, bi tráng. Trong khốc liệt chiến tranh, chính sức trẻ, ý chí kiên cường không ngại khó, ngại khổ, chẳng tiếc máu, tiếc xương của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến... đã dệt nên những chiến công, trở thành huyền thoại. Mà huyền thoại là bất tử, trường tồn”.
Trở lại với những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước, năm 1965, lực lượng vận chuyển bằng xe cơ giới của Đoàn 559, bộ đội Trường Sơn theo đường 12A qua tây Trường Sơn thường xuyên phải chịu cảnh ngập lụt tại túi nước Xiêng Phan (Lào). Đoạn từ Pắc Pha Năng đến bản Na Nô- Na Nhom ngập sâu trên 6 mét vào mùa mưa khiến hàng trăm xe ô tô bị ùn tắc, trở thành mục tiêu của máy bay Mỹ. Cần phải có một tuyến đường khác từ đông Trường Sơn qua tây Trường Sơn đến Lùm Bùm (thuộc tả ngạn Noọng Cà Đen) kết nối với đường 128 rồi nhập vào đường 9 chi viện cho chiến trường miền Nam. Bộ Tư lệnh Đoàn 559 quyết định mở một con đường mới tránh túi nước Xiêng Phan. Tuyến đường rọc ngang Trường Sơn được chọn, sau này đi vào huyền thoại với cái tên Đường 20- Quyết Thắng.
Đền tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Đường 20- Quyết Thắng
Đền tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Đường 20- Quyết Thắng
Đúng 17 giờ 30, ngày 30 Tết Bính Ngọ, năm 1966, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 phát lệnh chiến dịch mở đường mang tên “Chọc thẳng Trường Sơn, mở đường thắng lợi”. Với hai hướng chính đông tây đồng thời khởi công, huy động trên 4.800 cán bộ, chiến sỹ tham gia, sau 77 ngày đêm lao động khẩn trương, hai mũi chủ công gặp nhau tại km 65 vào ngày 14- 4- 1966. Các lực lượng công binh, TNXP tiếp tục san ủi, hoàn chỉnh mặt đường cho đến cuối tháng 5- 1966 mới thực sự đưa vào sử dụng. Tuyến đường rọc ngang Trường Sơn có chiều dài 125 km khởi điểm từ thôn Phong Nha, xã Sơn Trạch (Bố Trạch) và điểm cuối tại ngã ba Lùm Bùm.
Thiếu tướng Phan Khắc Hy cho biết thêm: “Sau khi mở đường 20 thắng lợi, chúng ta còn tiếp tục xây dựng thêm các tuyến 20B, 20C, 20D, tuyến đường kín cho xe cơ giới chạy ngày... Tầm quan trọng trên những tuyến đường này vượt quá dự định ban đầu của ta trong quá trình chi viện cho chiến trường miền Nam. Binh trạm 14 là đơn vị phụ trách đường 20. Với thành tích xuất sắc trong 7 năm bám đường chiến đấu và phục vụ chiến đấu (1966- 1973), Binh trạm 14 vinh dự có 8 tập thể và 8 cá nhân được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang gồm: Binh trạm 14, Trung đoàn cao xạ 224, Tiểu đoàn công binh 33, Tiểu đoàn cao xạ 14, Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn xe 52, Tiểu đoàn xe 781, Đội 25 TNXP, Đội cầu 10 cùng các cá nhân: Vũ Tiền Đề, Nguyễn Thị Nhạ, Khúc Văn Lượng, Phùng Văn Lưu, Nguyễn Phong Lưu, Kim Ngọc Quảng, Ngô Xuân Quảng và Nguyễn Văn Tửu”.
 Phát hiện đường 20 là một trong những tuyến giao thông huyết mạch thuộc hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh chi viện cho chiến trường miền Nam, từ năm 1965- 1972, đế quốc Mỹ điên cuồng dội bom đánh phá hủy diệt. Mỗi cung đường, địa danh trở thành một tọa độ lửa, như: cua chữ A, ngầm Ta Lê, đèo Pulanhic, ngầm Trạ Ang, Km14, Km 16, phà Xuân Sơn, phà Nguyễn Văn Trỗi... trong đó cua chữ A thuộc trọng điểm ATP (gồm cua chữ A, ngầm Ta Lê, đèo Pulanhic) là một trong số 42 điểm địch đánh phá ác liệt nhất trên 16 nghìn km mạng lưới đường mòn Hồ Chí Minh. Tại trọng điểm này, giặc Mỹ huy động 3.020 lần máy bay đánh phá, trong đó có 270 lần máy bay B52, anh tạc 20.600 quả bom phá, 790 quả bom sát thương, 3.400 loạt bom bi, 216 quả bom cháy. Có ngày địch đánh tới 93 trận, trong đó 8 trận máy bay B52 rải thảm. Song với khẩu hiệu "Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm", hàng vạn bộ đội, TNXP, dân công... “một tấc không đi, một ly không rời” bám trụ trên tuyến lửa. Trong vòng 7 năm khói lửa, bom đạn ác liệt, trên đường 20- Quyết Thắng đã có 552 liệt sỹ anh dũng hy sinh, hàng ngàn người khác mang trong mình thương tích suốt đời để dệt nên những huyền thoại bất tử.
Cây đa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trồng tại Đền tưởng niệm nhân chuyến thăm và làm việc tại Quảng Bình, tháng 9- 2011.
Cây đa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trồng tại Đền tưởng niệm nhân chuyến thăm và làm việc tại Quảng Bình, tháng 9- 2011.
Chiều ngày 14- 11- 1972, B.52 rải thảm dọc tuyến đường 20. Tiểu đội TNXP 163 thuộc Ban 67 đang bám đường gồm các anh chị: Nguyễn Văn Huệ, Trần Thị Tơ, Lê Thị Lương, Hoàng Văn Vụ, Nguyễn Văn Phương, Đỗ Thị Loan, Nguyễn Mậu Kỷ, Lê Thị Mai chạy vào một hang đá bên đường trú ẩn. Một loạt bom làm năm chiến sĩ pháo binh hy sinh trước cửa hang kèm theo một tảng đá nặng hàng ngàn tấn trên cao đổ ập xuống bịt kín miệng hang... Chuyện kể rằng, đồng đội tìm mọi cách cứu các anh chị ra nhưng đều bất lực, chỉ có một giải pháp duy nhất là luồn ống nhựa qua kẽ nứt rồi đổ cháo loãng vào với chút hy vọng mong manh kéo dài sự sống cho họ. Cách nhau một vách đá, đồng đội bên ngoài nghe rõ tiếng kêu cứu trong hang vọng ra... Tiếng kêu yếu dần, đến ngày thứ 9 thì chìm vào im lặng.
Huyền thoại Đường 20- Quyết Thắng, huyền thoại hang Tám TNXP tiếp nối nhau, xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại chảy vào tương lai, thành một minh chứng hào hùng của tuổi trẻ trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Hang Tám TNXP, Truông Bồn, ngã ba Đồng Lộc, phà Xuân Sơn, phà Long Đại... là những tượng đài sống động của thế hệ TNXP thời kỳ chống Mỹ. Tháng 3- 1973, trong chuyến thăm và kiểm tra hệ thống đường Trường Sơn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến nói chuyện với bộ đội và TNXP đường 20, Đại tướng biểu dương: “Đường 20- Quyết Thắng là một kỳ công, kỳ tích, kỳ quan do ý chí vì độc lập tự do của bộ đội và thanh niên xung phong làm nên”.
Tôi xin đọc những câu thơ trong bài phú của Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu khắc tại Đền tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đường 20 như một lời truy niệm: “Tuổi hai mươi nguyện hiến non sông/ Đường trăm trận sá gì sống chết/ Tỏ cùng trời đất tấm trung can/ Giải với non sông bầu nhiệt huyết... Tuổi chẳng thọ nhưng huân công mãi mãi trường tồn/ Thân dù tan mà khí phách đời đời bất diệt”.
                                                                 Theo Ngô Thanh Long/Báo Quảng Bình